PHẬT GIÁO VÀ MÔ THỨC LÀM ĂN KINH TẾ BỀN VỮNG

![]()
ĐĐ. Thích Thiện Ngọc *

![]()
Nhiều người, trong đó có cả một số Phật tử thường nghĩ rằng: Phật giáo bài bác việc tìm kiếm và thụ hưởng những nhu cầu vật chất, thay vào đó chỉ chú trọng đến việc phát triển đời sống tinh thần và sự thành tựu đạo quả Níp-bàn (Nibbāna) là mục tiêu duy nhất. Đây là một cách nhìn đầy thiển cận về đạo Phật. Khi đi sâu vào những bài giảng của Đức Phật trong Tam tạng (Tipiṭaka), ta thấy rằng Đức Phật là một người rất thực tế và biết rõ một sự thật rằng: bền vững kinh tế là điều quan trọng đối với sự thịnh vượng, ổn định và hạnh phúc của con người. Khi công việc làm ăn ổn định thì con người ta tâm trí rỗng rang nghĩ đến sự phát triển tinh thần.
Khi nói về hạnh phúc của người tại gia do kinh tế bền vững mang lại, Đức Phật đề cập bốn loại hạnh phúc:
- Atthisukha là hạnh phúc do làm chủ.
- Bhogasukha là hạnh phúc do thụ hưởng của cải vật chất mình có được đồng thời biết quan tâm chia sẻ những gì mình có được với người khác.
- Ānaṇyasukha là hạnh phúc do không mắc nợ ai, dù ít hay nhiều.
- Anavajjasukha là hạnh phúc do không phạm tội lỗi.1
Trong bốn loại hạnh phúc này, loại thứ tư là hạnh phúc có giá trị cao nhất vì nó nói lên tính chất hạnh phúc theo Phật giáo. Theo Đạo

![]()
* Ủy viên Phân Ban Hoằng pháp hải ngoại, Trụ trì chùa Đại Phước (Myanmar).
1. A. Catukkanipātapāḷi, Dutiyapaṇṇāsaka, Pattakammavagga, Ānaṇyasutta: cattārimāni, gahapati, sukhāni adhigamanīyāni gihinā kāmabhoginā kālena kālaṃ samayena samayaṃ upādāya. katamāni cattāri? atthisukhaṃ, bhogasukhaṃ, ānaṇya- sukhaṃ, anavajjasukhaṃ.
Phật, sự thịnh vượng, ổn định và hạnh phúc của một người phải dựa trên nền tảng đạo đức; tức kinh tế muốn ổn định, bền vững phải dựa trên lối sống Chánh mạng (Sammā-ājīva) và việc làm ăn, buôn bán phải chân chánh. Làm kinh tế mà không gắn kết với đạo đức không những hại bản thân, duy hại đất nước mà đó là nguyên nhân gây ra xung đột, bạo lực, bất ổn.
Đức Phật dạy việc làm buôn bán chân chánh phải tránh xa năm nghề: 1. Không buôn bán khí giới dùng để giết hại nhau, 2. Không buôn bán người để làm nô lệ hoặc mại dâm, 3. Không buôn bán thú hoặc thịt, 4. Không buôn bán chất say như rượu hoặc các chất kích thích và 5. Không buôn bán thuốc độc hại người.2 Người tại gia hành năm nghề này được gọi là sống tà mạng.
Trong xã hội hiện đại, nghề được gọi là tà mạng rất phức tạp chứ không phải chỉ có bấy nhiêu; nhưng chúng ta hiểu rằng Đức Phật đang nói về bối cảnh xã hội Ấn Độ cách nay hơn hai ngàn năm. Ở ý nghĩa bao quát, sự nuôi sống bằng Chánh mạng có nghĩa những phương tiện sinh kế phải chân chánh, đúng luật, không làm tổn hại bất cứ ai, giống như hình ảnh con ong bay đi hút mật mà không làm tổn hại đến hoa.3
Cách thức (hay mô thức) nào giúp cho làm ăn kinh tế bền vững là câu hỏi mà người Ấn Độ thời Đức Phật cũng hay đến tham vấn Ngài. Dân Veludvāra4 hoặc Bà-la-môn Dīghajāṇu,5 hoặc kinh Sampadā6 v.v… là những trường hợp điển hình, họ đã đến thăm viếng và thỉnh cầu Đức Phật dạy họ cách nào để thịnh vượng và hạnh phúc ở đời này và đời sau. Qua nội dung những bài kinh này, chúng được xem như những lời dạy về mô thức làm ăn kinh tế bền vững trong Phật giáo. Ở đây chúng ta sẽ tìm hiểu về bài kinh điển hình là Dīghajāṇu.

![]()
2. A. Pañcakanipātapāḷi, Catutthapaṇṇāsakaṃ, Upāsakavaggo, Vaṇijjāsutta: pañcimā, bhikkhave, vaṇijjā upāsakena akaraṇīyā. katamā pañca? satthavaṇijjā, sattavaṇijjā, maṃsavaṇijjā, majjavaṇijjā, visavaṇijjā — imā kho, bhikkhave, pañca vaṇijjā upāsakena akaraṇīyā”ti. sattamaṃ.
- KN, Dh, Pupphavagga: 49. yathāpi bhamaro pupphaṃ, vaṇṇagandhamaheṭha- yaṃ. paleti rasamādāya, evaṃ gāme munī care.
- S. Mahāvagga, Sotāpattisaṃyutta, Veḷudvāravagga, Veḷudvāreyyasutta.
- A. Aṭṭhakanipātapāḷi, Dutiyapaṇṇāsaka, Gotamīvagga, Dīghajāṇusutta.
- A. Aṭṭhakanipātapāḷi, Dutiyapaṇṇāsaka, Yamakavagga.
Bà-la-môn Dīghajāṇu đến trình bày với Đức Phật rằng: “Chúng con là những người sống tại gia nên thường gần gũi với vợ-con, dùng những thứ trang sức, đồ mỹ phẩm, vòng hoa, sử dụng vàng bạc. Với đời sống thụ hưởng dục lạc như thế, chúng con cầu xin Đức Bổn Sư dạy cho chúng con bằng cách nào để sống an lạc ở đời này và đời sau”.
Với tâm Đại Bi, Đức Phật đã chỉ dẫn cặn kẽ cho Dīghajāṇu những cách thức để có được sự thịnh vượng và hạnh phúc bền vững không chỉ ở hiện tại mà còn cả ở tương lai. Trong bài kinh này, chúng ta hoàn toàn không thấy Đức Phật bác bỏ, hay phủ nhận sự hưởng thụ vật chất của người cư sĩ. Đức Phật dạy có bốn pháp như là những điều kiện tất yếu, nếu được thực hành trọn vẹn sẽ đưa đến thịnh vượng và hạnh phúc bền vững:
- Uṭṭhānasampadā là không ngừng nỗ lực, thành thạo và có tâm gắn bó đối với nghề nghiệp hay công việc làm ăn kinh tế của mình. Người đó có khả năng làm chủ những công cụ lao động, biết cách sắp xếp, bố trí để công việc kinh tế của mình được thuận lợi và biết đào tạo ra đội ngũ làm việc giúp đỡ mình.
- Ārakkhasampadā là có khả năng khéo léo để bảo vệ, gìn giữ thành quả, tài sản do mồ hôi, công sức có được không để bị mất đi.
- Kalyāṇamittatā là có bạn lành, là những người bạn có bốn đức tính: có niềm tin, có giới hạnh, có tâm rộng rãi và có trí tuệ. Đức Phật dạy nên kết giao những người đó và hàm dưỡng bốn đức tánh ấy. Ở đây, chúng ta thấy việc kết giao bạn bè cũng là một yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của việc làm ăn. Bốn đức tính này cùng với tàm, uý, đa văn là tài sản của bậc thánh hay còn gọi là Thất thánh tài (Ariyadhana). Những tài sản này thù thắng hơn tài sản vật chất vì chúng không những không bị ai cướp đoạt, lấy đi mà còn đem lại hạnh phúc tâm hồn và cũng là nhân làm ra những tài sản vật chất. Theo quan điểm Phật giáo, một người được gọi là giàu có khi có Thất Thánh Tài này.
- Samajīvitā pháp cuối cùng này có nghĩa là có trí tuệ trong việc tiêu xài, có lối sống thăng bằng đối với tài sản hiện có để không bị mang tiếng là bần tiện hoặc hoang phí.
Khi xem xét cẩn thận bốn loại hạnh phúc và bốn pháp tạo dựng hạnh phúc, chúng ta thấy có sự kết hợp rõ ràng giữa đạo đức và sự
thịnh vượng; giữa đời sống thụ hưởng vật chất và sự phát triển đời sống tinh thần.
Trong bài kinh này Đức Phật còn dạy bốn cửa tiêu phí của cải:
1. Đam mê đàn bà (Itthīdhutta), 2. Đam mê rượu chè (Surādhutta),
3. Đam mê cờ bạc (Akkhadhutta) và 4. Chơi với bạn xấu (Pāpamit- ta). Đây được xem là bốn tệ nạn xã hội một khi vướng vào chúng sẽ phá hoại hạnh phúc gia đình, làm băng hoại xã hội và giết chết cả tuổi thanh xuân cống hiến cho quê hương, đất nước. Một điều ngạc nhiên là bốn cửa tiêu phí của cải này rất giống với Tứ đổ tường (Tửu, Sắc, Tài, Khí) là những tệ nạn trong xã hội Việt Nam được ông bà ta thường răn dạy mọi người phải tránh xa.
Ngoài bốn pháp đưa đến an lạc kể trên, thực ra trong kinh điển Phật giáo, Đức Phật đã dạy rất nhiều cách thức hỗ trợ giúp những người làm kinh tế, những doanh nhân tạo ra của cải vật chất hay làm giàu một cách chân chánh, như: Tứ nhiếp pháp (Saṅgahavatthu), hay Bốn nhiếp pháp của vị vua (Rājasaṅgahavatthu) hay Tứ như ý túc (Iddhipāda); hay như những bài kinh Maṅgalasutta, Dhammikasut- ta, Parābhavasutta của Suttanipāta (Kinh tập) hay Siṅgālasutta của Dīghanikāya (Trường bộ kinh) hay Vyaggapajjasutta và Gihisukhasut- ta thuộc Aṅguttaranikāya (Tăng chi bộ kinh), v.v...
Mặc dù, những bài kinh này không như những bài giảng của các nhà kinh tế, hay các trường lớp kinh tế chỉ dạy con người ta chi tiết cách thức làm kinh tế, nhưng những lời dạy của đức Phật được xem như những nguyên tắc đạo đức, phương pháp quản lý và cách thức bảo quản tài sản v.v… được vận dụng và nhờ đó việc làm kinh tế mới ổn định phát triển, thịnh vượng và con người hạnh phúc.
***
--------------------------------------------------------------------------------
Những chữ viết tắt (cước chú) và sách tham khảo: Aṅguttaranikāyapāḷi A.
Dhammapadapāḷi Dh.
Khuddakanikāyapāḷi KN.
Saṃyuttanikāyapāḷi S.