VAI TRÒ CỦA VẤN ĐỀ HOẰNG PHÁP TRONG XU HƯỚNG THỜI ĐẠI MỚI
HT. Thích Giác Quang *
Phật giáo đã có mặt trên đất nước Việt Nam vào những ngày đầu của Kỷ nguyên Tây lịch. Phật giáo được truyền trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam qua con đường giao thương hàng hải, đường hồ tiêu…1 trước rồi sau đó mới truyền qua Trung Quốc chứ không phải Phật giáo từ Trung Quốc truyền qua Việt Nam như những sách cũ đã ghi (Theo sách Việt Nam Phật giáo sử luận, quyển I, của Nguyễn Lang, 1994).
* Ủy viên HĐTS GHPGVN, Phó Trưởng Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh Đồng Nai.
- Sự truyền bá Đạo Phật từ Ấn Độ cùng trong tư trào truyền bá văn minh Ấn ra các nước chung quanh. Trong thập hùng ca Ramayana của Ấn Độ có nói đến tên các xứ như Sumatra, xứ của vàng (Suvanna Bhumi), Java ...Theo các tư liệu của W. Cohn trong Buddhha in der Kunst des Ostens, Leipzig 1925; F.M. Schnitger trong The Archaellogy of Hindoo Sumatra, Leyde 1937 và G. Ferrand trong tạp chí Journal Asiatique Juillet - Aout 1919 ... Người ta đã tìm thấy các dòng chữ Sanskrit của Mulavarman tại các vùng Kutei ở Borneo và các bia đá khắc chữ Sanskrit của Purnavarman ở Tây Java. Các tượng Phật thuộc trường phái Amaravati được tìm thấy ở Sampaga (Célèbes) phía nam tỉnh Giember (Đông Java) trên đồi Se Guntang ở Pelembang (Sumatra) là xưa nhất có thể là trước công nguyên. Do đó người ta đã kết luận rằng những bước đầu văn minh và tôn giáo từ Ấn Độ đã truyền qua Indonesia phải xảy ra trước công nguyên. Do đó hệ luận đương nhiên là nền văn minh và tôn giáo từ Ấn Độ xuôi buồm đến Giao Châu cũng cùng thời điểm và cùng đi theo đường biển lên phương Bắc.
Theo V. Rougier trong sách Nouvelles Découvertes Chames au Quang Nam, Befeo XI, đã viết rằng các nhà khảo cổ đã tìm thấy tượng Phật Đông Dương, một trong những tác phẩm điêu khắc đẹp nhất thuộc trường phái Amaravati Ấn Độ. Điều nầy cho thấy chính người Ấn Độ đã truyền đạo Phật thẳng vào Việt Nam chứ không phải từ Trung Hoa truyền vào.
Đồng thời những người Ấn phát xuất từ Trung Ấn còn dùng tuyến đường bộ quang qua đèo Hasse Des Trois Pagodes, theo sông Kanburi xuống châu thổ sông Menam, từ đó đến sông Mekong qua đất Lào rồi vào Thanh Hóa, Nghệ An và đến Luy Lâu của Giao Châu. Trên tuyến đường nầy các nhà khảo cổ cũng đã tìm được các cổ vật của nền văn minh Ấn Độ và di tích Phật giáo.
Theo sử gia Nhật Bản, ông Kamata, trong sách Trung Quốc Phật giáo Thông sử, xuất bản tại đại học Đông Kinh năm 1981, đã nhiều lần xác nhận rằng Phật giáo đã du nhập vào Trung Quốc từ Việt Nam, có đoạn ông gọi là Việt Nam, có đoạn gọi là Giao Chỉ. Đề cập đến Phật giáo Giao Chỉ tức là đề cập đến trung tâm Phật giáo tại Luy Lâu2.
Với một nền giáo lý trong sáng chan hòa lòng từ bi hỷ xả, nhẫn nại bao dung và nhất là luôn soi sáng bởi trí tuệ thanh tịnh, do đó nên Phật giáo đã nhanh chóng hòa vào dòng chảy văn hóa dân tộc Việt Nam. Một dân tộc đã có truyền thống trung thành với Tổ quốc, hiếu kính Tổ tiên ông bà, luôn nhẫn nại chịu đựng gian lao khó nhọc. Đặc biệt luôn nêu cao tinh thần “tôn sư trọng đạo” và đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Đó là những nét văn hóa mang tính nhân văn suốt 4.000 năm lịch sử.
Thật vậy, gần 2.000 năm qua Phật giáo đã cùng dân tộc này gánh chịu biết bao thăng trầm vinh nhục, cùng chia sẻ ngọt bùi, đồng cam cộng khổ, hàng triệu những người con Phật đã hy sinh tuổi thanh xuân và những ước mơ tươi đẹp nhất của riêng mình, đã nằm xuống cho quê hương Việt Nam thân yêu và đã trở thành những Anh hùng Liệt sỹ khả kính. Tất cả những hình ảnh đó luôn bất tử trong lòng người dân Việt. Có thể nói Phật giáo Việt Nam luôn xứng đáng là thành viên đáng tin cậy nhất trong khối đại đoàn kết dân tộc. Bất cứ trong thời
- Luy Lâu tiếng Việt gọi là Dâu, tiếng Hán phiên âm ra Luy Lâu còn gọi là Liên Lâu, nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, Bắc Việt. Ngày xưa Việt Nam có 3 thị trấn cổ là Luy Lâu, Long Biên và Cổ Loa. Riêng Luy Lâu nằm trên bờ sông Dâu cách sông Đuống 5 cây số về phía Bắc. Dân Luy Lâu có nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa rất nổi tiếng. Về địa thế, có nhiều đường thủy bộ chạy ngang qua Luy Lâu khiến nơi đây thành một trung tâm giao dịch rất quan trọng. Có những đường bộ như con đường đi Phả Lại, Đông Triều đến biên giới Việt Trung (nay là đường số 18). Đường thủy từ sông Dâu nối sông Đuống, sông Hồng ra biển, hoặc nối với sông Lục Đầu, sông Thái Bình rồi ra biển.
Vì địa thế thuận lợi cho việc giao thông như thế nên Dâu là trung tâm thương mại rất sầm uất đương thời. Các thương gia Ấn Độ và Trung Quốc đều đổ về đây để mua bán các nông sản, lâm sản, vải vóc và các hàng công kỹ nghệ khác rất thạnh hành. Họ mua hàng tại đây để đem về nước hoặc trên đường buôn bán tiếp tục qua các nước khác trong vùng.
Luy Lâu còn là trung tâm chính trị, là thủ phủ của Giao Châu qua nhiều thời đại của chính quyền đô hộ từ phương Bắc. Thủ phủ nầy có thể được xây dựng từ thời Triệu Đà, 179 năm trước công nguyên. Sau khi nhà Hán chiếm được Nam Việt của Triệu Đà, họ vẫn giữ nguyên Luy Lâu làm trị sở của Giao Chỉ. Trong sách biên niên của nhà Hán ghi 10 huyện của quận Giao Chỉ trong đó Luy Lâu là đứng đầu.
điểm nào, Phật giáo luôn gắn bó sẻ chia cùng dân tộc Việt Nam thân thương này cho đến ngày nay. Vì vậy, trong Đại hội Phật giáo nhiệm kỳ 8 vừa qua, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã gửi lời chúc mừng thành công tới Đại hội, trong đó nhấn mạnh: “Từ xa xưa, giáo lý Phật giáo đã thấm nhuần vào trong đời sống của toàn thể người dân Việt Nam. Giá trị tốt của Phật giáo đã góp phần hun đúc nên những giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao và tin tưởng vào vai trò, sức mạnh và hiệu quả đóng góp của Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới ngày nay trên nền tảng tự do tín ngưỡng tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết và bình đẳng tôn giáo”.3
Ngày 30-04-1975, sau khi đất nước đã thống nhất về mặt nhà nước, tất cả các ban ngành trong nước lần lượt đi vào nề nếp ổn định, Phật giáo cũng không ngoại lệ. Bấy giờ các bậc cao Tăng thạc đức đã đem hết khả năng và trí tuệ của mình, vận động tất cả các Hệ phái từ Nam đến Bắc, không phân biệt môn phong giáo phái, chung lòng chung sức cùng nhau xây dựng một Giáo hội Phật giáo duy nhất tại Việt Nam4. Chúng tôi có thể khẳng định rằng: Sự thống nhất Phật giáo lần này không gì đúng đắn hơn và đầy đủ trọn vẹn ý nghĩa hơn. Trải qua 38 năm với 8 nhiệm kỳ, toàn thể chư Tôn giáo phẩm Tăng Ni cả nước từ trung ương đến địa phương đã được sự hỗ trợ tận tình của lãnh đạo Chính quyền các cấp. Đặc biệt nhất, sự thành công rực rỡ của đại lễ Vesak 2019 vừa qua tại Hà Nam, Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình đã nhấn mạnh: “Đại lễ Vesak đã trở thành ngày hội chan hòa tinh thần đoàn kết quốc tế, nêu cao thông điệp hòa bình, đoàn kết và yêu thương trên nền tảng tư tưởng của đức Phật - bậc minh triết được Liên hợp quốc suy tôn và nhân loại ngưỡng mộ, là nơi gặp gỡ của Phật tử và những người yêu Đạo Phật. Trong những ngày qua, những tinh hoa về tư tưởng, trí tuệ và lòng từ bi theo kinh Phật giáo đã kết nối tình đoàn kết kắp nơi, hội tụ về Tam Chúc. “Các ý nguyện tốt đẹp về một thế giới
- https://anninhthudo.vn/chinh-tri-xa-hoi/toan-canh-dai-hoi-dai-bieu-phat-giao- toan-quoc-lan-thu-viii/748989.antd
- Ngày 07-11-1981 một Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc gồm 9 giáo phái được diễn ra tại chùa Quán Sứ - Hà Nội. Thủ đô nước CHXHCN Việt Nam. Với danh xưng là: Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Tại Đại hội này đã ban hành một Hiến chương gồm 12 chương và 52 điều. Từ đó GHPGVN chính thức là một tổ chức duy nhất tại đất nước Việt Nam, có đầy đủ tư cách pháp nhân và pháp lý đối với tất cả các vấn đề có liên quan đến Phật giáo trong nước cũng như ngoài nước.
hòa bình, về một xã hội phát triển bền vững đã được thảo luận, thống nhất, thể hiện qua tuyên bố chung Hà Nam Vesak năm 2019, khẳng định sự đóng góp thiết thực của Phật giáo Việt Nam nói riêng và Phật giáo thế giới nói chung và việc thực hiện hóa các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Với những đóng góp đó, chúng ta hy vọng về một tương lai tươi sáng của nhân loại và những bất ổn của xã hội như chiến tranh, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khổ đau của nhân loại và khoảng cách giàu nghèo, biến đổi khí hậu… từng bước được đẩy lùi, tư tưởng của đại lễ Vesak LHQ sẽ tiếp tục được phát huy mạnh mẽ, để thông điệp về hòa bình và yêu thương của đức Phật luôn tỏa sáng”.
Hòa thượng Brahmapundit - Chủ tịch Thường trực ICDV khẳng định, ba ngày qua là khoảng thời gian tuyệt vời thể hiện lòng mến khách của GHPGVN và con người Việt Nam. Hòa thượng cho biết, Ban Tổ chức đã làm việc hết sức mình và tích cực và ra về với những cam kết mới, có thêm nhiều người bạn mới, cũng như nỗ lực thực hiện trong Tuyên bố Hà Nam. “Tôi vô cùng hoan hỷ thông báo chúng ta đã tổ chức thành công Đại lễ Vesak tại đất nước có bề dày lịch sử và tươi đẹp này. Tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Lãnh đạo Nhà nước Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã hợp tác đăng Đại lễ vô cùng hoành tráng này”, Hòa thượng Brahmapundit phát biểu.5
Một số thực trạng hiện tại của Phật giáo Việt Nam với ngành Hoằng pháp
1. Từ sự nhận định trên, chúng ta có thể thấy rằng: Hơn 38 năm qua từ khi GHPG Việt Nam có mặt, ngoài sự đóng góp công sức và trí tuệ cho quê hương đất nước, Giáo hội còn phải từng bước khắc phục khó khăn từ các yếu tố khách quan bên ngoài đến các vấn đề nội tại hiện nay. Cho đến nay có thể nói tất cả đều đã tương đối ổn định. Nói như thế, không có nghĩa là mọi sự khó khăn trở ngại trước mắt không còn, chúng ta phải luôn sáng suốt và nhất là không được chủ quan.
Mỗi khi đề cập về vấn đề hoằng pháp hay giáo dục Phật giáo, người ta thường nghĩ đến ý nghĩa đào tạo, giáo dục không những có trách nhiệm đào tạo kiến thức Phật học và thế học để bổ sung kỹ năng hoằng pháp mà chức năng chính là đào tạo tác phong tư cách, rèn luyện ý chí kiên cường; tư tưởng thanh cao, xứng đáng là bậc Sa
5. https://baoquocte.vn/dai-le-vesak-2019-thanh-cong-ruc-ro-94136.html
môn phạm hạnh, mô phạm trong chốn Thiền môn. Không những thế, người tu sĩ Phật giáo còn phải luôn tinh tiến phấn đấu, khẳng định lập trường vượt qua tất cả tài sắc danh lợi, kiện toàn bản lĩnh, xứng đáng là người đệ tử xuất gia của đức Phật.
Với những ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công việc đào tạo Tăng Ni như chúng tôi đã trình bày trên. Nhìn về quá khứ và hiện tại vấn đề giáo dục Phật giáo đã được phát huy có thể nói là khả quan.
Một vấn đề cũng không kém phần quan trọng, đó là các vị Giáo thọ, Giảng viên tham gia cống hiến, giảng dạy các cấp Phật học, cần phải thường xuyên tham gia và cập nhật liên tục các Kỹ năng nghiệp vụ sư phạm phù hợp với. Lý do là vì kiến thức Phật học cũng như nghiệp vụ sư phạm của các vị Giáo thọ và Giảng viên, có thể nói chênh lệch khá lớn. Chúng ta đang ở cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, cách giáo dục chuyển đổi từ truyền thống sang hiện đại, lấy người học làm trung tâm, cách giảng dạy cũng phải tiếp cận theo hướng mới, khơi dậy sự đam mê, tìm tòi, tự nghiên cứu ở người học, hay chương trình khung theo từng Học viện phải giống nhau ở lẫn Việt Nam và Quốc tế để trao đổi du học sinh phù hợp chuẩn quốc tế. Khung chương trình mỗi cơ sở đào tạo phù hợp với khung chương trình đào tạo của mỗi quốc gia quy định để thống nhất theo từng quy định giáo dục hiện hành.
Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập riêng biệt về kiến thức và kỹ năng giảng dạy, tuyệt đối không đề cập đến tư cách Hành giả tu tập hay đạo đức cá nhân. Một khi giáo dục đã thật sự vào nề nếp ổn định, bấy giờ mới có thể triển khai các lớp đào tạo chuyên ngành, tương đương như hệ thống các trường thuộc Đại học Quốc gia thuộc từng chuyên ngành, do Học viện Phật học đảm nhiệm đào tạo ngoài một số khoa chuyên sâu nội điển như: Triết học, Giảng sư, Thiền sư (kinh tạng), Luật sư, Luận sư, Sinh ngữ Anh (hoặc tiếng Hoa, chuyên nhanh cổ ngữ Pali, Sankrit) và còn có các ngành học phù hợp xu hướng thời đại như: Tôn giáo học, Triết học, Ngữ văn, Nhân học, Tâm lý học, Công tác xã hội. Đặc biệt khi khung chương trình hai năm đại cương phù hợp với hệ thống giáo dục quốc dân, sinh viên sẽ được tiếp nhận đào tạo và cấp văn bằng của các Trường Đại học chính quy bên ngoài, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể cho Tăng Ni sinh trẻ hiện nay, hầu có đủ nhân sự để đáp ứng những nhu cầu thực tiễn của Giáo hội hiện tại và tương lai.
Chúng tôi đề xuất ý kiến như vậy, bởi vì GHPGVN đã bước qua 2 giai đoạn hình thành và củng cố, giờ đây là giai đoạn phát triển bền vững toàn diện. Hơn thế nữa, đất nước Việt Nam và Phật giáo Việt Nam đã và đang trên đà phát triển mọi mặt, khẳng định vị trí không những trong nước, khu vực mà còn ảnh hưởng sâu rộng khắp các nước trên thế giới. Có thể nói đây là thời điểm thuận lợi nhất để Phật giáo phát huy tiềm năng sẵn có của mình, hầu đóng góp thiết thực nhất cho quê hương xứ sở.
2. Nếu như đề cập đến vấn đề Hoằng pháp mà không nói đến sự nghiệp Giáo dục thì thật là điều thiếu sót. Điều này trong chốn Thiền môn xưa nay ai cũng biết, nếu muốn truyền bá chánh pháp cho tất cả mọi người, nhất là những vùng sâu vùng xa, người làm công tác Hoằng pháp, ngoài sự kiên định lập trường và hạnh nguyện cao cả, còn có cả một sự hy sinh vô cùng to lớn, nếu không được như đức Phật thì tối thiểu cũng tương đương như các vị Tiên sư, Cổ đức. Chẳng hạn để nói lên sự hy sinh cao cả của Đức Phật Thích Ca, người xưa đã nói: “Nhất bát thiên gia phạn, cô thân vạn lý du. Kỳ vị sanh tử sự, giáo hóa độ xuân thu”. (Một bát cơm ngàn nhà, thân đi muôn dặm xa, chỉ vì việc sanh tử, giáo hóa tháng ngày qua). Đức Phật vượt bao khó khăn, trở ngại để truyền bá chánh pháp trong một đất nước ảnh hưởng nặng nề bởi các tôn giáo đa thần hay nhất thần, nặng mùi tín điều và lễ bái. Ngài Phú Lâu Na hoằng pháp nơi ngoại đạo dù ảnh hưởng đến sự an toàn nhưng Ngài không ngần ngại, Ngài Khương Tăng Hội bị nhà Ngô thách đố sự linh ứng, mầu nhiệm Phật pháp mới cho truyền đạo, Ngài Đạt Lai Lạt Ma 14 mặc dù không ở trên quê hương xứ sở của mình, nhưng tầm ảnh hưởng của Ngài đối với Quốc tế là rất lớn, hay chính đất nước Việt Nam cũng có Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thiền sư là người đưa ra khái niệm “Phật giáo dấn thân” (engaged Buddhism). Với những hoạt động không ngừng nghỉ của mình, thiền sư Thích Nhất Hạnh trở thành nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây, chỉ sau Đạt Lai Lạt Ma6, thật muôn vàn công hạnh mà hiện nay nếu mỗi nhà hoằng pháp chúng ta nỗ lực nhiệt thành cũng là gương sáng cho hậu thế muôn đời sau học hỏi và làm cho Phật giáo ngày càng phát triển bền vững, đem lại hòa bình, hạnh phúc cho muôn loại chúng sanh.
6. AP đánh giá trong một bài viết năm 2009.
Vị Giảng sư thuyết pháp, cho dù bài giảng bố cục chặt chẽ, văn chương lưu loát, mang tính thuyết phục cao đến đâu đi nữa, điều đó chưa đủ mà còn phải thực nghiệm tâm linh qua một quá trình nhất định, danh từ Phật giáo gọi là khẩu giáo và thân giáo. Nói cách khác, ngôn hành hợp nhất, hành giải tương ưng. Đó mới là bản hoài và gia vụ của người hoằng pháp. Chính vì thế theo chúng tôi, để trở thành một Giảng sư gương mẫu ưu tú nhất định phải có khoảng thời gian tu tập thực tiễn như: Nhập thất, thiền tịnh song hành, cụ thể là lấy Tam học Giới, Định, Tuệ trang nghiêm tự thân. Bởi vì mỗi một hành vi đi đứng nằm ngồi v.v… của một Giảng sư hay Tu sĩ nói chung là những bài pháp vô cùng sâu sắc, ảnh hưởng rất lớn trong đời sống thường nhật của người Phật tử. Chính vì thế, sự nghiệp hoằng pháp là sự nghiệp chung của chư Tăng Ni, trong đó có các vị Trụ trì. Phải khách quan nhận định rằng tất cả những gì chúng ta hành trì, tu tập hôm nay đều bắt nguồn từ những hành vi và ngôn ngữ đơn giản nhất của các vị Tổ sư xưa để lại. Điều muốn nói thêm là vẫn biết Phật sự nào khi muốn thực hiện tất nhiên sẽ có những sự trở ngại nhất định, nhưng không vì thế mà chúng ta e ngại khó khăn chùn bước, trong khi cơ hội phát triển Phật giáo không lúc nào thuận lợi hơn lúc này. Tôi tin tưởng rằng trên có chư Phật chứng minh, chư Bồ tát gia hộ, thứ đến chư Đại lão Hòa thượng Tôn túc trong Giáo hội là bực Đại thiện tri thức, cộng với số đông Phật tử thuần thành phát tâm yểm trợ, không Phật sự nào không hoàn thành.
3. Giải pháp thực hiện.
Bắt đầu từ khóa VIII nhiệm kỳ này, tất cả các Trường trung cấp Phật học đều phải áp dụng chương trình giảng dạy đúng như Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương đề xuất. Muốn thực hiện điều này có kết quả, đề nghị các Ban Giáo dục Phật giáo tỉnh thành không những báo cáo theo ngành ngang cho Ban Trị sự tỉnh thành trước Hội nghị tổng kết 6 tháng cuối năm mà còn phải báo cáo đầy đủ về Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương theo ngành dọc. Có như thế Ban Giáo dục Trung ương mới có cơ sở để đề xuất những ý kiến trong mỗi kỳ Đại Hội Phật giáo toàn quốc, làm cho chương trình Giáo dục ngày càng được hoàn chỉnh hơn. Không những Ban Giáo dục mà Ban Hoằng pháp các tỉnh thành cũng thực hiện tương tợ như thế, báo cáo số lượt giảng của từng thành viên giảng sư đoàn trung ương, số lượng và đối
tượng thính chúng để chúng ta chủ động trong việc nâng cấp trình độ Phật tử và thành quả đạt được của mỗi thành viên giảng sư đoàn.
Kính đề nghị mỗi thành viên giảng sư đoàn hoặc Tăng Ni sinh sau khi tốt nghiệp các khóa giảng sư, cao trung cấp Giảng sư cũng phải được phân công chịu trách nhiệm giảng dạy theo vùng, để tránh tình trạng đồng bào Phật tử vùng xa không được tham gia học Phật pháp. Mỗi thành viên cũng được phân công lượt giảng theo quy định, để phân bổ đều chư tôn đức giảng sư, tránh tình trạng có vị không đủ thời gian để giảng dạy, còn có vị không có cơ hội để phụng sự, cống hiến. Đề xuất mỗi giảng sư cũng trang bị đầy đủ kỹ năng chuyên môn, sử dụng được vi tính và ngoại ngữ (đối với giảng sư trẻ) để phù hợp trong xã hội hiện tại, tạo đam mê nghiên cứu giáo pháp đối với giảng sư và cả người học. Tất nhiên mỗi giảng sư cũng phải có thời gian để hành trì, thể nghiệm, thực học, thực tu thì sự giảng dạy đem lại nhiều kết quả.
Khi soạn thảo xong chương trình giảng dạy cấp đại học, sau Đại học Phật học, đối với các Học viện, nếu không có gì trở ngại, Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương có thể thành lập một Ban Kiểm tra thẩm định chương trình giảng dạy tại các Học viện. Điều cần phải lưu ý: Ngoài các vị Chủ giảng ra, những người làm công tác Phụ giảng cũng cần phải hội đủ bằng cấp Học vị tương đương, phù hợp chuyên môn của từng chuyên ngành riêng biệt, hạn chế tối đa trong việc kiêm nhiệm nhiều chức vụ để mỗi giảng viên có thời gian nghiên cứu chuyên sâu, cần thiết mỗi năm quy định chính giảng viên cũng phải trực tiếp tham gia đề tài cấp trường, hoặc cùng tham gia đề tài, quy định tham gia hội thảo, viết bài nghiên cứu khoa học.... Giáo dục như thế thì Hoằng pháp cũng phải như thế. Để từng ngày chúng ta kiện toàn bộ máy giáo thọ, giảng sư đủ trình độ chuyên sâu, nâng tầm và vị thế của thành viên Ban giáo thọ, Ban hoằng pháp.
Trước khi dứt lời, một lần nữa kính chúc Hội thảo thành công tốt đẹp.
Chân thành cảm ơn Quý vị!