GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
NCS. ĐĐ. Thích Huệ Đạo
MỞ ĐẦU
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn của thế giới. Trải qua hơn 2.000 năm lịch sử hiện diện và đồng hành với dân tộc Việt Nam, đạo Phật đã trở thành tôn giáo của dân tộc. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Phật giáo Việt Nam đã có nhiều đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của dân tộc trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về lĩnh vực giáo dục đạo đức. Có thể nói, Phật giáo được xem là một trong những nhân tố quan trọng góp phần định hình nên các quan niệm, chuẩn mực và hệ giá trị đạo đức trong xã hội. Tư tưởng về đạo đức nhân sinh của Phật giáo là một tư tưởng xuyên suốt và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam.
Đất nước Việt Nam ngày nay đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam, tư tưởng chủ đạo cho mọi hoạt động. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập, thì ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao

![]()
*. Nghiên cứu sinh Tiến sĩ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
- KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC VÀ ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
- Khái niệm đạo đức
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội bao gồm những chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng (gia đình, làng xóm, giai cấp, dân tộc hoặc toàn xã hội). Căn cứ vào những chuẩn mực ấy, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và ác, về cái không được làm (vô đạo đức) và về nghĩa vụ phải làm. Khác với pháp luật, các chuẩn mực đạo đức không ghi thành văn bản pháp quy có tính cưỡng chế, song đều được mọi người thực hiện do sự thôi thúc của lương tâm cá nhân và của dư luận xã hội. Đạo đức ra đời và phát triển là do nhu cầu của xã hội phải điều tiết mối quan hệ

![]()
1. Nguyễn Đình Tường (2006), “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trước tác động của toàn cầu hóa”, Triết học, số 5, tr. 29.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
cấp vẫn còn tồn tại, xuất hiện nhiều hiện tượng tham nhũng, sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận cán bộ đảng viên, đạo đức truyền thống của dân tộc cũng bị lai căn, xuống dốc v.v…
“Đạo đức ở một bộ phận nhân dân, đặc biệt là ở tầng lớp thanh thiếu niên đang có xu hướng “trượt dốc”1. Đây là tín hiệu “báo động đỏ” trong đời sống đạo đức ở nước ta hiện nay. Trước thực trạng trên, theo tôi đạo đức Phật giáo có thể giúp xã hội giải quyết những điều đó. Đạo Phật giúp con người thay đổi cách suy nghĩ, lời nói, hành động theo con đường chánh đạo. Ngày nay hệ thống giáo dục Phật giáo nói chung và Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã có bước phát triển đột phá từ nội dung đến hình thức, từ lý luận sang thực tiễn để thực hiện chức năng xã hội – giáo dục đạo đức của mình. Điều đó tạo niềm tin vững chắc không chỉ trong giới Tăng Ni, Phật tử nói riêng mà còn ở nhân dân trong và ngoài nước nói chung. Vì vậy tôi chọn vấn đề “Giáo dục đạo đức Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay” làm đề tài tham luận của mình trong Hội thảo Phật học Việt Nam thời cận đại 2019.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
giữa các cá nhân và hoạt động chung của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tính đạo đức biểu hiện bản chất xã hội của con người, là nét cơ bản trong tính người, sự tiến bộ của ý thức đạo đức là cái không thể thiếu được trong sự tiến bộ chung của xã hội.
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử, và xét cho cùng là sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thủy, đạo đức của chế độ chủ nô, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản. Lợi ích của giai cấp thống trị là duy trì và củng cố những quan hệ xã hội đang có; trái lại giai cấp bị bóc lột tùy theo nhận thức về tính bất công của những quan hệ ấy mà đứng lên đấu tranh chống lại và đề ra quan niệm đạo đức của riêng mình. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp. Đồng thời đạo đức cũng có tính kế thừa nhất định. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau, nhưng xã hội vẫn giữ lại những điều kiện sinh hoạt, những hình thức cộng đồng chung. Tính kế thừa của đạo đức phản ánh “những luật lệ đơn giản và cơ bản của bất kỳ cộng đồng người nào” (Lênin). Đó là những yêu cầu đạo đức liên quan đến những hình thức liên hệ đơn giản giữa người với người. Mọi thời đại đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội, v.v... và biểu dương cái thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn… “không ai nghi ngờ được rằng nói chung đã có một sự tiến bộ về mặt đạo đức cũng như về tất cả các ngành tri thức khác của nhân loại” (Engels). Quan hệ giữa người với người ngày càng mang tính nhân đạo hơn. Ngay trong xã hội nguyên thủy đã có những hình thức đơn giản của sự tương trợ và không còn tục ăn thịt người. Với sự xuất hiện của liên minh bộ lạc và nhà nước, tục báo thù của thị tộc dần dần mất đi. Xã hội chủ nô coi việc giết nô lệ là việc riêng của chủ nô, đến xã hội phong kiến, việc giết nông nô bị lên án. Đạo đức phong kiến bóp nghẹt cá nhân dưới uy quyền của tôn giáo và quý tộc, đạo đức tư sản giải phóng cá nhân, coi trọng nhân cách. “Nhưng chúng ta vẫn chưa vượt được khuôn khổ của đạo đức giai cấp. Một nền đạo đức thực sự có tính nhân đạo, đặt lên trên sự đối lập giai cấp và mọi hồi ức về sự đối lập ấy chỉ có thể có được khi nào xã hội đã tới một trình độ mà trong thực tiễn của đời sống, người ta không những thắng được
-
- Khái niệm đạo đức Phật giáo
Đức Phật dạy: “Ví như nước biển chỉ có một vị là vị mặn, cũng vậy, này Pahàrada, Pháp và luật của ta chỉ có một vị là vị giải thoát”. Ngài còn dạy: “Này các Tỳ kheo, xưa cũng như nay ta chỉ nói lên sự khổ và diệt khổ”. Trong lần chuyển pháp luân đầu tiên tại Benares, giảng về Tứ đế, đức Phật xác định đây là khổ, nêu nguyên nhân của khổ, nói đến sự chấm dứt khổ (giải thoát, Niết bàn) và con đường diệt khổ. Thế là Ngài đã tuyên bố mục đích mọi hành động của con người và

- Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2000), Từ điển Bách khoa Việt Nam 1 (A-Đ), Nxb. Từ điển Bách khoa, tr. 738.
- Học viện Chính trị Quốc gia (2000), Giáo trình đạo đức học, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 816.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
mà còn quên đi sự đối lập giai cấp” (Engels). Đó là trình độ của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa”2.
Danh từ “Đạo đức” bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris) - lề thói, (moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, về sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo còn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội. Khái niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo. Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”3.
- Graw Hill Book, London.
- Đoàn Trung Còn (1997), Phật học từ điển, quyển 2, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 524.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
giáo lý của Ngài là nhằm giải thoát khỏi khổ đau. Có thể nói toàn bộ giáo lý của đức Phật là một giáo lý đạo đức, hay Phật học là đạo đức, một đạo đức xây dựng trên giải thoát, do một người đã giải thoát truyền dạy, lấy giải thoát làm cứu cánh, lấy giải thoát làm chuẩn mực để đánh giá các hành động.
Theo quan niệm của các nhà xã hội học, thì đạo đức được xem là một môn khoa học chuẩn hóa về hạnh kiểm của con người sống trong xã hội. Đạo đức còn được gọi là ngành khoa học để đánh giá hạnh kiểm là tốt hay xấu, đúng hay sai. Về thực tiễn thì đạo đức căn bản được thành lập chủ yếu dựa trên mối quan hệ giữa con người với người. Có thể nói đạo đức là môn học đánh giá hành vi thiện ác của con người thông qua thân khẩu, ý và được thực hiện bởi lý trí, tình cảm và ý chí4. Giá trị phổ quát của đạo đức là lấy sự hy sinh tự kỷ làm tiêu chí, lấy sự quên mình vì người làm căn bản. Thước đo của đạo đức là tâm vị tha, sự cảm thông, lòng trắc ẩn v.v...
Theo Phật giáo, đạo đức được hiểu như sau: “Đạo là chánh pháp, đức là đắc đạo, là không làm sai lệch nền chánh pháp”, hay “Các chân tính, các nguyên lý tự nhiên là đạo; vào được lòng người, cảm ứng với người làđức. Đạođức lànền phápgiáomàngười tanên theo”5. Như vậy, nếu chánh pháp của Phật giáo là chánh pháp về giải thoát thì mọi giá trị đạo đức Phật giáo gắn liền với quá trình giải thoát. Những giáo pháp giúp con người đạt đến cảnh giới Niết bàn trở thành những nguyên tắc đạo đức căn bản của xã hội, do đó, học thuyết đạo đức của Phật giáo được thể hiện qua các phạm trù phổ biến như: thiện
– ác, tứ vô lượng tâm, bình đẳng, hiếu đạo v.v…
Như vậy đạo đức Phật giáo hình thành trên cơ sở kế thừa các tư tưởng đạo đức trước đó, được hiểu là lấy xa lìa ngã chấp, ngã dục làm tiêu chí, lấy tư tưởng duyên khởi vô ngã làm chủ đạo. Đạo đức Phật giáo được hiểu một cách khái quát là những giới điều Phật dạy nhằm ngăn chặn những điều ác và phát triển những điều thiện đem

- TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
- Hành thiện – giá trị chủ đạo của đạo đức Phật giáo
Đạo Phật khuyên con người làm lành lánh dữ. Hễ việc nào mang tính thiện thì dốc sức thực hành, cốt yếu là giữ tâm ý trong sạch để không bị những phiền não quấy nhiễu.
Trong kinh Pháp Cú 183 đức Phật có nói: “Không làm mọi điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch Chính lời chư Phật dạy”6.
Bản chất của giáo lý nhà Phật là chỉ ra cái khổ, nguyên nhân của nỗi khổ ấy, niềm vui khi đoạn diệt khổ và con đường đoạn tận khổ đau. Do đó đạo Phật một mặt chỉ rõ con đường khổ đau của con người để tránh, vừa khích lệ con người hành thiện để giảm bớt khổ đau. Mặt khác, đạo Phật dạy con người sống có ý thức, có trách nhiệm, không ỷ lại, không chạy trốn, không đổ lỗi, không cầu xin. Đức Phật dạy con người là chủ nhân của chính mình, là hòn đảo của chính mình. Vì vậy khổ đau hay hạnh phúc là do chính mình quyết định.
Trong kinh Tương ưng, đức Phật có nói: “Hãy sống tự mình làm hòn đảo của chính mình, này các Tỷ kheo, hãy nương tựa nơi chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một ai khác”7. Đây là tinh thần giáo dục rất lành mạnh và tích cực đối với việc giáo dục một con người tốt cả mặt cá nhân và mặt xã hội. Trên nền tảng giáo lý đó, tính thiện trong đạo đức Phật giáo xuất hiện.

- Thích Minh Châu (2016), Kinh Pháp Cú, Nxb. Phương Đông, tr. 85.
- Thích Minh Châu (2013), Đại tạng kinh Việt Nam Nam truyền, Kinh Tương Ưng bộ, Phẩm Tự mình làm hòn đảo, tập 1, Nxb. Tôn giáo, tr. 673.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
đến sự an lành và hạnh phúc cho mọi người, mọi loài. Kinh Thiện Sinh là một trong những bài kinh thể hiện tư tưởng đạo đức của Phật giáo trong nhiều mối quan hệ của cuộc sống.
-
- Từ bi – giá trị nền tảng của đạo đức Phật giáo
Lòng từ bi, bác ái là điểm nổi bật của giáo lý Phật giáo khuyên con người sống có đạo đức, có tình thương yêu, không phân biệt đối với mọi người và mọi loài. Định nghĩa theo danh từ nhà Phật, Từ nghĩa là hiền lành, thẳng thắn, là làm vui cho người và vật, thể hiện lòng khoan dung độ lượng; Bi là thương xót, đồng cảm với người hay vật, khi thấy họ đau khổ, gặp hoạn nạn và cố cứu họ ra khỏi hoàn cảnh ấy. Từ bi là đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người, mọi loài, và cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh, quên những lợi ích của bản thân. Quan điểm từ bi, bác ái của Phật giáo được thể hiện qua các điểm sau: Một là, Phật giáo đem tình yêu thương, bình đẳng đến với mọi người, hai là, Phật giáo đề cao con người và giải thoát con người khỏi khổ đau, ba là, Phật giáo đào tạo con người “Từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha”.

- Thích Minh Châu (1991), Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trường bộ, tập 1, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, ấn hành, tr. 133.
- Thích Minh Châu (1991), Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trường bộ, tập 1, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, ấn hành, tr. 112.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
Thiện (akusa), như được định nghĩa trong kinh sách, là lành, tốt, có đạo đức; thuận theo đạo lý, có ích cho mình và cho người; là trạng thái tiêu diệt ác pháp. “Từ bỏ sát sinh là thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện, từ bỏ ác khẩu là thiện, từ bỏ nói phù phiếm là thiện, không tham dục là thiện, không sân là thiện, chánh tri kiến là thiện”8. Quả báo của thiện là sự an lạc thân tâm.
Ngược với thiện là ác, bất thiện (akusala) chính là ác pháp. “Sát sinh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói hai lưỡi là bất thiện, ác khẩu là bất thiện, nói phù phiếm là bất thiện, tham dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện”9. Quả báo của bất thiện là sự khổ đau trong tâm hồn.
Với quan niệm như vậy, có thể thấy xuyên suốt toàn bộ giáo lý tư tưởng Phật giáo chính là hướng con người thực hành “thiện”, thể hiện rõ nét nhất ở trong giới luật Phật giáo.
-
- Tu tâm – giá trị định hướng của đạo đức Phật giáo
Phật giáo quan niệm, mọi sự mọi việc đều do tâm tạo ra tất cả: “nhất thiết duy tâm tạo”. An lạc cũng do tâm tạo, khổ đau cũng bởi tại tâm. Đó chính là tâm sanh diệt, thay đổi luôn luôn, thường do tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên con người thường tạo nghiệp bất thiện nhiều hơn là nghiệp thiện. Trong Kinh Pháp cú, đức Phật có nói:
“Tâm dẫn đầu các pháp Tâm làm chủ, tâm tạo Nếu với tâm ô nhiễm Nói lên hay hành động Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo Tâm dẫn đầu các pháp Tâm làm chủ tâm tạo Nếu với tâm thanh tịnh Nói lên hay hành động An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình”10.
Pháp cú 1 và 2 này dạy, tất cả những tội lỗi gây ra, đều do tâm chúng ta chủ động, nếu ta làm ác, làm điều bất thiện thì đau khổ, nghiệp báo sẽ theo mình như hình với bóng. Như vậy, tâm của con người quan trọng vì nó diễn tả nhân cách của một con người. Tâm biểu lộ tư cách, hình tướng, thái độ… Vì vậy phải tu tâm. Tu tâm suy cho cùng là thực hành Bát chánh đạo.
Như vậy, tư tưởng cơ bản của đạo đức Phật giáo suy cho cùng là hướng đến hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng một xã hội lành mạnh, phát triển bền vững.

![]()
10. Thích Minh Châu dịch (2016), Kinh Pháp Cú, Nxb. Phương Đông, tr. 9.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
- THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
- Giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu đối với đạo đức con người Việt Nam hiện nay
- Những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam
Giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam là sản phẩm của lịch sử, có từ buổi đầu dựng nước và giữ nước. Chính đặc điểm điều kiện tự nhiên hình thành và phát triển của xã hội Việt Nam đã làm cho các giá trị truyền thống được vun đắp trong suốt tiến trình lịch sử. Những giá trị này được mọi người thừa nhận và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và trở thành sức mạnh, bản sắc của con người Việt Nam. Nghiên cứu về các giá trị đạo đức truyền thống của người Việt Nam đã có rất nhiều học giả với quan niệm khác nhau.
Theo giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng: “Các giá trị truyền thống của dân tộc ta có bảy phạm trù: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Trong đó ông cho rằng yêu nước là giá trị truyền thống cơ bản nhất của dân tộc, vì yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam”11.
Theo Hội nghị Trung ương 5 – khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra định nghĩa về bản sắc của dân tộc Việt Nam chính là hệ thống các giá trị truyền thống cơ bản. “Bản sắc dân tộc bao gồm các giá trị truyền thống bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn và ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã, lòng nhân ái – khoan dung, đức cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử…”12. Như vậy, có thể khái quát các giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của người Việt Nam là: truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn

- Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 108.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ 5 – BCH.TU khóa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 56.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
Yêu nước – giá trị cốt lõi nhất của đạo đức truyền thống
Yêu nước là tình cảm thiêng liêng, cao quý không một thứ tình cảm nào có thể sánh bằng. Yêu cha yêu mẹ, yêu thầy yêu cô, yêu bạn yêu bè, yêu quê cha đất tổ, thậm chí “tử vì đạo” cũng không thể sánh được với lòng yêu nước. Bởi vì “tử vì đạo” là chết cho tôn giáo riêng của mình chứ chưa phải chết cho đất nước.
Sống trong lòng dân tộc mà một người nào đó không có lòng ái quốc thì giống như một thứ “ngoại kiều” trục lợi trên quê hương mình mà không hề “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”. Không có lòng ái quốc giống như “gỗ mục” như “bèo giạt mây trôi” – thời bình có thể làm gián điệp cho ngoại bang còn khi đất nước lâm nguy có thể sẵn sàng làm tay sai bán nước nếu bản thân mình hoặc gia đình mình có lợi. Cho nên yêu nước là tình cảm, tư tưởng, truyền thống quý báu nhất, cao nhất từ xưa cho đến nay. “Với tư cách là sản phẩm thuộc văn hóa tinh thần của dân tộc, lòng yêu nước của một dân tộc hiển nhiên phải được hình thành từ chính lịch sử của bản thân mỗi dân tộc chứ không phải là sự bắt chước theo một dân tộc khác. Tình cảm yêu nước của một dân tộc phải xuất phát từ tình cảm đối với mảnh đất đã sinh ra dân tộc đó chứ không phải là người ta yêu nước vì thấy dân tộc khác cũng yêu nước. Chính vì thế cái tình cảm hiển nhiên đó vẫn là bản sắc của một dân tộc, cho dù nó có thể giống với tình cảm của các dân tộc khác”13.
Ngay từ buổi đầu của dựng nước là giữ nước. Đất nước ta đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh chống giặc để bảo vệ Tổ quốc. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì lòng yêu nước của dân tộc ta lại nổi dậy. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi

- Nguyễn Văn Dân (2009), Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 191.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
kết, truyền thống cần cù, sáng tạo, tiết kiệm trong lao động, truyền thống tự chủ, tự lực, tự cường, truyền thống nhân ái, khoan dung, truyền thống lạc quan.
- Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.171.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”14.
Từng giai đoạn lịch sử là từng nấc thang của lòng yêu nước được huân tập. Chính lòng yêu nước mà dân tộc ta mới đủ sức mạnh để chiến thắng giặc. Do đó chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Truyền thống yêu nước đầu tiên trong buổi đầu dựng nước được thể hiện thông qua các câu chuyện cổ tích như: Vua Hùng dựng nước, Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh trăm trứng nở trăm con, Thánh Gióng đuổi giặc Ân, Truyền thuyết Nỏ thần… Như vậy, chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nó là cội nguồn sức mạnh của dân tộc để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Có thể nói chủ nghĩa yêu nước là giá trị đạo đức truyền thống cốt lõi nhất của dân tộc.
Đoàn kết – giá trị nền tảng của đạo đức truyền thống
Ngay từ khi mới ra đời và trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những bài học kinh nghiệm lớn, là phương thức và cũng là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong mỗi giai đoạn cách mạng. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng phong phú, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát thành tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc và nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết / Thành công, thành công, đại thành công”.
Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt

![]()
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr. 158-159.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”15.
Truyền thống đoàn kết dân tộc được hình thành trên cơ sở ý thức chung về cội nguồn dân tộc qua truyền thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ trăm trứng”. Mỗi người đều là quyến thuộc của nhau vì cùng chung một mẹ nên phải có trách nhiệm đoàn kết yêu thương nhau. Bên cạnh đó tinh thần đoàn kết còn xuất phát từ thực tiễn sản xuất của cải vật chất, và chống giặc ngoại xâm. Vốn xuất thân là nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên con người phải đoàn kết, gắn bó với nhau để đảm bảo lạc nghiệp về đời sống kinh tế - xã hội. Trong quá trình đó con người phải đương đầu với các thế lực thù địch, cho nên để bảo vệ lãnh thổ, quê hương thì con người phải đoàn kết và tương trợ lẫn nhau, vừa sản xuất vừa chiến đấu.
Truyền thống đoàn kết được thể hiện rõ nhất trong gia đình, cộng đồng, làng xã. Ca dao Việt Nam có câu: “Thuận vợ thuận chồng, tát Biển Đông cũng cạn”. Triết lý về sự đoàn kết trong vợ chồng có thể tát cạn Biển Đông là điểm nổi bật của tinh thần đại đoàn kết. Nhờ đoàn kết thuận trước vừa sau mà gia đình có thể làm nên việc lớn. Từ đoàn kết trong gia đình hướng đến đoàn kết trong làng xã. Mỗi khi xảy ra thiên tai, lũ lụt thì cả làng cùng chung vai sát cánh bên nhau khắc phục hậu quả. Và tinh thần đoàn kết làng xã này mở rộng ra trở thành tinh thần đại đoàn kết dân tộc và không ngừng được củng cố và phát huy trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Truyền thống cần cù, sáng tạo, tiết kiệm trong lao động
Cần cù, siêng năng là một trong những giá trị đạo đức truyền thống nổi bật, phẩm chất đáng quý của người Đông Á, trong đó có Việt Nam. “Không ai chối cãi rằng nhân dân Việt Nam rất cần cù. Có người quan sát từ nước ngoài đến nước ta chú ý rằng mọi cơ năng của con người Việt Nam đều được dùng để làm việc: đầu đội, vai gánh, lưng cõng, tay nhanh nhẹn và khéo léo, chân chạy như bay… cái đó có thật, nói lên đức tính cần cù lao động của người Việt Nam nói chung”16.
Đối với mỗi người Việt Nam, cần cù, siêng năng, sáng tạo trong lao động là điều phải làm vì có như vậy mới có của cải vật chất. Phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó trong lao động của người Việt Nam luôn gắn với sự dành dụm, tiết kiệm và trở thành đức tính cần có như một lẽ tự nhiên. Như vậy, đầu tiên, đức tính cần cù, sáng tạo và tiết kiệm trong lao động chính là yếu tố quan trọng giúp con người có thể đảm bảo được việc duy trì cuộc sống cá nhân.
Dân tộc Việt Nam ta ngay từ buổi đầu dựng nước, dù đứng trước hoàn cảnh tự nhiên khắc nghiệt, nhưng người Việt Nam đã vận dụng khả năng sáng tạo của trí lực và sức mạnh tập thể để chinh phục tự nhiên, cải biến tự nhiên để phục vụ con người. Những cánh đồng bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù sa, những mảnh vườn, những ngôi nhà, những dụng cụ sắc sảo v.v… có được như ngày hôm này chính là thành quả cần cù, sáng tạo của cha ông ta từ xưa đã dựng nên. Ông cha ta xem lao động là phương thức của sự tồn tại của con người. Trong quá trình lao động thì bản chất đạo đức con người được bộc lộ. Lao động nghiêm túc, cần cù sáng tạo góp phần tạo ra nhiều giá trị vật chất để phục vụ cho xã hội luôn được mọi người khen ngợi. Đó là hành vi đạo đức trong lao động. Ngược lại biếng nhác trong lao động làm trì trệ tiến độ công việc, ảnh hưởng đến năng suất lao động thì bị mọi người khinh rẻ, xem

- Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 172.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
Truyền thống tự chủ, tự lực, tự cường
Trong quá trình dựng và giữ nước, nhân dân ta luôn phát huy truyền thống tự chủ, tự lực, tự cường dân tộc. Đó cũng là truyền thống quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay. Truyền thống này nhằm phát huy tối đa sức mạnh chủ quan, sức mạnh bên trong của dân tộc Việt Nam trong mọi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược.
Dân tộc ta luôn kiên định mục tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ bằng cách đoàn kết quyết chiến quyết thắng kẻ thù. Dù kẻ thù có hung hãn hay hùng mạnh đến đâu nhưng với tinh thần tự chủ, tự lực và tự

- Trần Văn Giàu (1980), sđd, tr. 190.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
thường, trở thành kẻ ăn bám gia đình và xã hội. “Giá trị mỗi người ngày hôm qua là tinh thần chiến đấu hết mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Ngày hôm nay, giá trị ấy là hiệu quả của công tác và năng suất lao động vì sự giàu mạnh của đất nước, vì sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta và trên thế giới”17. Cho nên con người thông qua lao động mà bộc lộc tài năng và phẩm chất khác nhau.
Bên cạnh việc tạo ra các giá trị vật chất phục vụ cho con người, người Việt Nam còn tạo ra các giá trị tinh thần trong quá trình lao động như: các loại hình văn học dân gian, các câu ca dao, tục ngữ, câu hò, vè, truyện thơ lục bát, truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích, truyền thuyết…. Chúng được sáng tác bởi các nhà nho, các tầng lớp lao động trong xã hội và phát triển khắp nơi.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, sự cần cù, sáng tạo đi đôi với thực hành tiết kiệm trong lao động sản xuất của mỗi người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa thiết thực, bởi đây chính là động lực tiên quyết nhằm tăng năng suất, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Qua đó tự mỗi người công dân Việt Nam tự ý thức xây dựng tự do, hạnh phúc bằng chính sức lao động và sự sáng tạo không mệt mỏi của mình, đóng góp một phần vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Truyền thống nhân ái, khoan dung
Nhân ái, khoan dung là một trong những giá trị truyền thống cơ bản của người Việt Nam. Nó thấm sâu trong các quan hệ từ trong gia đình đến xóm làng, cộng đồng xã hội; từ trong sinh hoạt đời thường đến sản xuất, đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đối xử với tù binh chiến tranh. Qua những thời kỳ lịch sử khác nhau, lòng nhân ái, khoan dung có những nội dung mới, song về cơ bản, vẫn giữ được nét đặc sắc riêng; là cơ sở quan trọng để thiết lập mối quan hệ giữa người với người.
Lòng nhân ái, khoan dung của dân tộc Việt Nam có nguồn gốc sâu xa từ trong xã hội công xã nông thôn thời kỳ nguyên thuỷ, buổi đầu dựng nước. Chúng ta đều biết, dân tộc Việt Nam có lịch sử

- Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 84.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
cường dân tộc, người Việt Nam luôn tin tưởng mình sẽ giành chiến thắng. Có thể nói đây là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa chính nghĩa và phi lý. Và chính cái chính nghĩa đã thắng cái hung tàn. Như Nguyễn Trãi đã từng nói trong Bình Ngô đại cáo:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Người Việt Nam không chỉ chiến đấu để giải phóng cho dân tộc mình, mà còn vì khát vọng hòa bình, độc lập của các dân tộc khác trên thế giới. Trong lịch sử từ thời vua Hùng dựng nước, đến thời đại phong kiến, rồi cuối cùng là thời đại Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta luôn trung thành với phương châm: lấy dân làm gốc, dựa vào sức mạnh tự chủ, tự lực, tự cường dân tộc để đánh tan quân thù. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Hồ Chí Minh đã từng nói: “Kháng chiến trường kỳ, gian khổ, đồng thời phải tự lự cánh sinh. Trông vào sức mình… Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”18.
- Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.34 .
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
nhiều ngàn năm, có nhà nước Văn Lang tồn tại lâu dài hàng nghìn năm. Trong thời gian dài như vậy, dân tộc Văn Lang đã hình thành nền văn hoá mang bản sắc riêng của mình; trong đó, lòng nhân ái, khoan dung là một tình cảm đạo đức lớn, có nét đẹp riêng, như là một giá trị văn hoá rất cơ bản trong hệ giá trị của người Việt Nam. Chính lòng nhân ái, khoan dung của người Việt là sợi dây tinh thần gắn kết các tầng lớp người với nhau tạo sức mạnh đoàn kết trong việc bảo vệ chủ quyền dân tộc.
Lòng nhân ái của dân tộc là cơ sở cho lòng khoan dung ngày càng rộng mở trong đời sống cộng đồng, nó bao hàm cả tấm lòng vị tha, bao dung, độ lượng, lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương. Điều này không chỉ bó hẹp trong cộng đồng người Việt mà cả với kẻ thù xâm lược. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi có viết:
“Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run”19.
Chính tinh thần nhân đạo của Nguyễn Trãi là minh chứng cho truyền thống nhân ái, khoan dung của dân tộc Việt Nam. Đó là nét đẹp “thương người như thể thương thân”. Người Việt rất yêu chuộng hòa bình, muốn đối xử với nhau bằng tình thương, không phân biệt giai cấp, vị trí xã hội, sang hèn, chủng tộc, tôn giáo, luôn hòa hảo với bạn bè thế giới. Và khi phải rơi vào tình thế chiến tranh thì đem chính nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo, sẵn sàng cấp ngựa, cấp thuyền đưa giặc về biên giới an toàn.
Lòng nhân ái, khoan dung của người Việt được hình thành trên cơ sở kế thừa những hạt nhân tinh túy nhất từ tư tưởng “Nhân” trong Nho giáo và “Từ bi” trong Phật giáo. Nhân trong Nho giáo

![]()
Truyền thống lạc quan
Lạc quan là truyền thống quý báu vốn có từ xưa cho đến nay của dân tộc Việt Nam. Nó được hình thành là do đòi hỏi khách quan từ thực tiễn cuộc sống mang lại, giúp cho dân tộc Việt đủ bản lĩnh, niềm tin hướng về tương lai tươi sáng của dân tộc. Tinh thần lạc quan đó khác với sự chủ quan tự dối mình và dối người, mà là dựa trên cơ sở niềm tin vững chắc, tin vào sức mạnh của chính bản thân mình, tin vào khả năng làm chủ vận mệnh của chính mình, chứ không chịu cúi mình an phận trước một quy định đã an bày. Giáo sư Trần Văn Giàu đã từng nói: Trong tư tưởng lạc quan có một niềm tin mãnh liệt. Nhưng lòng tin đó không phải là một sự tin tưởng có tính chất tôn giáo, mà là một sự tin tưởng có tính chất khoa học, nghĩa là có căn cứ thực tế dựa trên những suy lý chắc chắn, bằng vào kinh nghiệm lịch sử.
Lạc quan trước hết là yêu đời, yêu cuộc sống. Truyền thống lạc quan của dân tộc ta được hình thành gắn liền với nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm và được thử thách trong điều kiện tự nhiên vô cùng khắc nghiệt, đe dọa đến sự sống chết của dân tộc

- Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ 5 – BCH.TU, khóa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 36.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
dùng để chỉ cho người quân tử, kẻ tiểu nhân thì không thể có được điều nhân. “Từ bi” trong Phật giáo dùng để chỉ cho tình thương bao la, lòng vị tha vì người khác. Trong khi đó, đối với người Việt thì nhân ái, khoan dung là không phân biệt đẳng cấp, chủ yếu giúp con người vượt qua khó khăn, gian khổ, khoan dung và tha thứ cho nhau khi phạm sai lầm. Như vậy, nhân ái, khoan dung là chất keo gắn kết tất cả mọi người lại với nhau, cùng nhau xây dựng một xã hội hòa hảo, cùng có trách nhiệm với nhau và yêu thương nhau. Nhân ái, khoan dung còn là điều kiện cho hòa bình, phát triển kinh tế và sự tiến bộ xã hội. Đảng ta đã từng khẳng định: “Thương nước – thương nhà, thương người – thương mình là truyền thống đậm đà của nhân dân ta”20.
-
-
- Đạo đức con người Việt Nam hiện nay
Mục tiêu nhất quán xây dựng đất nước của Đảng ta là “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, do nhân dân lao động làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao, bền vững, có quan hệ sản xuất phù hợp, có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Là một xã hội mà con người giải phóng khỏi áp bức bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc và phát triển cá nhân một cách toàn diện. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Có thể nói đây là mục tiêu phấn đấu vô cùng vĩ đại và không ít khó khăn đặc biệt đối với nước ta. Đó là một nước với nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, trình độ văn hóa còn thấp, khoa học kỹ thuật thì thô sơ, lạc hậu lại chịu sự ảnh hưởng to lớn từ chiến tranh.
Đất nước Việt Nam hiện nay trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
ta. Trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc, từ thời Hai Bà Trưng đến Ngô Quyền có hàng trăm cuộc khởi nghĩa của dân tộc nổ ra, hay cuộc chiến tranh giữa dân tộc ta với Pháp, Mỹ, Nhật.... Với tinh thần lạc quan, tin vào chính nghĩa, tin vào sức mạnh dân tộc, ta đã giành chiến thắng vang dội trong ba lần thắng giặc Nguyên, thắng Pháp, Mỹ, Nhật qua phương châm “thua keo này, ta bày keo khác”. Qua đó cho thấy trong mọi hoàn cảnh, dân tộc Việt Nam luôn giữ cho mình một lối sống lạc quan yêu đời, yêu quê hương đất nước, và luôn tin tưởng vào sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh của lòng yêu nước, tin vào chính nghĩa, chân lý, trí tuệ của con người Việt Nam. Nhờ lạc quan mà dân tộc Việt vượt qua nhiều khó khăn thử thách. Ông cha ta thường động viên nhau qua câu tục ngữ: “Chớ thấy sóng cả, chớ ngã tay chèo” nhằm động viên tinh thần bền chí, lạc quan cho các thế hệ con cháu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.
- Nguyễn Duy Quý (chủ biên) (2006), Đạo đức ở xã hội nước ta hiện nay – vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 101.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
tế. Điều đó mở ra nhiều cơ hội cho nước nhà vươn lên ngang tầm với các nước trong khu vực. Đó cũng là cơ hội phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế được xem là sản phẩm của nền văn minh nhân loại nói chung và của chủ nghĩa tư bản nói riêng, tạo nên nhiều thành tựu vượt bậc về kinh tế, sự giàu có phồn vinh của chủ nghĩa tư bản. Nền kinh tế này chủ trương phát huy sức mạnh tất cả các thành phần kinh tế, phát triển nâng cao trình độ lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, các thành phần kinh tế làm giàu chính đáng cho bản thân mình và cho xã hội. Do đó nó kích thích tính chủ động, sáng tạo của các cá nhân, tập thể, các tổ chức trong xã hội. Mỗi chủ thể tham gia hoạt động kinh tế đều trở nên năng động, tháo vát, hiệu quả hơn trong hoạt động của mình. Mỗi người luôn ý thức về năng lực, trình độ học vấn, tự chịu trách nhiệm cá nhân đối với xã hội, khắc phục những biểu hiện khoa trương trong công việc. Cho nên “con người được coi là có đạo đức hiện nay phải là người có năng lực lao động tự giác, làm việc hết mình vì trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội”21. Con người luôn chủ động giải quyết những nhu cầu của cuộc sống mình, không thụ động, chờ đợi hay ỷ lại vào người khác. Vì vậy con người rèn luyện được tính năng động và sáng tạo cao trong lao động.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực về lợi ích mà nền kinh tế mang lại như: tính năng động, sáng tạo, tự giác, dám nghĩ dám làm, tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát, có óc thẩm mỹ coi trọng các giá trị tinh thần, đạo đức v.v... thì kéo theo nó là những mặt tiêu cực về đạo đức, cách ứng xử của người làm kinh tế. Hàng loạt những thói hư và tật xấu được bộc lộ ra, làm xuống cấp về đạo đức một cách trầm trọng của quần chúng nhân dân, gây mâu thuẫn trong nội bộ không chỉ trong xã hội tư bản mà còn trong xã hội Việt Nam. Nó làm xáo trộn đời sống văn hóa đạo đức tinh thần, các giá trị đạo đức truyền thống bị lai căn xuống dốc. Thay vào đó là chủ nghĩa thực dụng, đề
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 22.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
cao giá trị đồng tiền, con người chạy theo các giá trị vật chất, mất sự tin tưởng lẫn nhau, các giá trị niềm tin bị mất phương hướng, mối quan hệ giữa con người với nhau lạnh nhạt, thờ ơ, tạo sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt giữa các dân tộc, các vùng kinh tế. Có không ít những trường hợp xấu xảy ra: tình nghĩa cha con, vợ chồng, anh em bị xói mòn, tan vỡ vì đồng tiền. Điều này làm phương hại đến nhân cách, phẩm giá, nghĩa tình, các giá trị truyền thống nhân bản của dân tộc, và là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội. Ảnh hưởng tiêu cực này không chỉ tác động đến các tầng lớp bình dân mà còn ăn sâu vào một bộ phận cán bộ đảng viên, “tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra nghiêm trọng”22.
Như vậy trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay đã đặt ra một chuẩn mực đạo đức mới có liên quan đến ý thức tự giác, tính năng động xã hội và trách nhiệm đạo đức không chỉ ở hành vi cá nhân mà còn phát triển các giá trị đạo đức tốt đẹp của xã hội. Nó đòi hỏi phải xác lập, duy trì các giá trị đạo đức truyền thống, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa đạo đức hiện đại, gắn lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Đặc biệt là mỗi cá nhân phải tự rèn luyện mình bằng cách nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, có trách nhiệm đạo đức trước xã hội cao hơn, không chỉ trong lao động sảnxuất mà còn trong cách ứng xử với môi trường sống. Cho nên công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải đi đôi với vấn đề bảo vệ môi trường.
Ngày nay, chúng ta đang tiến hành xây dựng nếp sống văn minh, môi trường đạo đức trong lao động sản xuất, kinh doanh, trong gia đình, tập thể, làng xã, thành phố v.v... gắn liền với việc sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Việc xây dựng môi trường đạo đức trong kinh tế gắn liền với pháp luật có một vai trò quan trọng không chỉ trong lao động sản xuất mà còn củng cố và cải tạo các quan hệ đạo đức truyền thống lỗi thời trước kia, đáp ứng kịp thời lối sống

![]()
-
-
- Đạo đức con người Việt Nam có yếu tố truyền thống của đạo đức Phật giáo
Từ xưa, người Việt Nam đã có những tín ngưỡng dân gian như thờ Mẫu, thờ Thành hoàng, Thần tài, Thổ địa, thờ cúng gia tiên v.v... với mong muốn được các vị thần linh và tổ tiên phù hộ cho cuộc sống gặp được nhiều may mắn, đồng thời cũng thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của nhân dân ta. Trải qua thời gian thăng trầm của lịch sử, các hình thức tín ngưỡng bản địa này đã bộc lộ những mặt hạn chế và lạc hậu của nó so với thực tiễn cuộc sống. Thế là con người hướng đến khao khát thỏa mãn những vấn đề triết lý nhân sinh của cuộc sống như: ý nghĩa của cuộc sống, vấn đề thiện ác nhân quả, khổ đau, hạnh phúc v.v... Và Phật giáo đã xuất hiện, đáp ứng tâm tư nguyện vọng của con người lúc bấy giờ. Bản chất của đạo Phật là tinh thần từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha. Cho nên từ khi du nhập vào Việt Nam, đạo Phật đã được đông đảo thần dân quy ngưỡng. Các giá trị đạo đức của Phật giáo cũng từ đó mà xâm nhập và ảnh hưởng đến nền đạo đức của dân tộc Việt Nam. Đạo đức Phật giáo đã góp phần bổ sung thêm các giá trị đạo đức mới vào nền đạo đức truyền thống của dân tộc.
Đạo đức Phật giáo đã thật sự bám rễ vào đời sống tinh thần của dân tộc, ảnh hưởng ngày càng sâu sắc đến đời sống tâm lý, phong tục, tập quán, lối sống con người Việt Nam. Cho nên đại đa số con người Việt Nam đều thờ Phật. Đối với họ nhắc đến Phật giáo, không chỉ là nhắc đến hệ tư tưởng giáo lý cao siêu mà còn là nhắc đến một nhân cách sống lý tưởng, một điều gì đó bình dị, gần gũi với tâm tư tình cảm của họ như: làm lành lánh dữ, từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha, không hận thù, oán trách v.v... Họ đã tìm được ở Phật giáo bến đỗ bình yên, một điểm tựa tinh thần của mình trong cuộc sống.
Từ khi du nhập vào Việt Nam, đạo Phật đã được con người Việt Nam kết nối hòa quyện với các tín ngưỡng truyền thống của mình như thờ Tứ Phủ: mây, mưa, sấm, chớp, Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện ở Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh hiện
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
văn minh trong thời hiện đại.
- Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ cuối thế kỷ XIV đến cách mạng tháng 8, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 495.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
nay). Điều này thể hiện sự dung hợp cao giữa Phật giáo với các tín ngưỡng bản địa trước đó của con người Việt Nam. Vì vậy ca dao Việt Nam có câu:
“Mái chùa che chở hồn dân tộc Nếp sống muôn đời của tổ tông”.
Hình ảnh ngôi chùa đã trở nên thân thuộc với dân tộc ta. Trong chiến tranh, ngôi chùa là nơi bảo bọc và che chở cho các chiến sĩ bộ đội Cụ Hồ. Trong thời bình thì ngôi chùa cũng là nơi truyền bá chân lý đạo đức Phật giáo, là điểm tựa tinh thần đáng tin cậy cho người Việt Nam ta. Đời sống tinh thần, phong tục tập quán của người Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng đức Phật. Chẳng hạn như: hiền như Bụt, từ bi như Bồ tát, ác giả ác báo, thiện giả thiện báo, hay ca dao có câu: ai ơi ăn ở hiền lành, kiếp này không hưởng để dành kiếp sau v.v... Giáo sư Trần Văn Giàu có viết:
“Tín ngưỡng Phật giáo phổ biến trong đại đa số nhân dân. Người dân không biết gì về triết lý cao xa của Phật mà chỉ biết cầu phúc, chỉ biết chuyện quả báo luân hồi. Từ lâu rồi, triết lý Phật giáo trở thành một thứ đạo đức bác học từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn là hạt nhân, chúng sinh có thể hiểu được, làm được, không cao xa rắc rối như triết lý Phật giáo nguyên thủy. Tự thân tích đức ở kiếp này để an vui, hưởng phúc ở kiếp sau”23.
Hầu hết các thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi tư tưởng đạo đức Phật giáo. Tư tưởng này đã ăn sâu vào máu thịt của người Việt Nam, làm cho các giá trị đạo đức của người Việt thêm bản sắc riêng và hoàn thiện hơn. Chính đạo đức Phật giáo giúp họ có thêm nghị lực trong việc định hướng lý tưởng sống, sống vị tha và biết yêu thương lẫn nhau, xem việc phụng sự và giúp đỡ mọi người là niềm vui của chính mình. Họ luôn tin tưởng tuyệt đối rằng: làm thiện sẽ được quả lành, làm ác sẽ bị quả xấu, những suy nghĩ, lời nói và việc làm của mình đều được

![]()
- Trần Văn Giàu (1986), “Đạo Phật và một số vấn đề của lịch sử tư tưởng Việt Nam”,
Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội, tr. 11-15.
- Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 115.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
sự giám sát của các vị thần hộ pháp. Khi gặp nạn, thì chắc chắn sẽ có đức Phật hay Bồ tát ra tay cứu giúp. Cho nên mỗi lần đứng trước sự rủi ro, sợ hãi, những điều trái ý nghịch lòng thì người Việt Nam thường hay niệm: Nam mô A di Đà Phật hay Nam mô Quán Thế âm Bồ tát… Chính niềm tin đó làm cho họ có nghị lực vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc đời.
Giáo lý nhà Phật với tư tưởng “từ bi, hỷ xả”, và hình ảnh ông Bụt (Đức Phật) là biểu tượng cho cái thiện, cho lòng nhân ái. Trong chuyện cổ tích thường xuất hiện hình ảnh ông Bụt râu tóc bạc phơ ra tay diệt trừ cái ác đem lại công bằng cho người lương thiện. Ông Bụt là biểu tượng cho công lý, là khát vọng hạnh phúc của nhân dân. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm lược. Tinh thần độc lập chủ quyền đất nước được đề cao. Chủ nghĩa yêu nước từ đó đã trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc. Qua đó ta thấy Phật giáo rất phù hợp với tâm lý, truyền thống đạo đức dân tộc và luôn thể hiện tinh thần yêu nước và cứu nước. Giáo sư Trần Văn Giàu có nói: “Theo sát cuộc đấu tranh của dân tộc từ trước đến nay không tư tưởng nào hơn Phật giáo, trừ chủ nghĩa cộng sản. Bình minh của lịch sử dân tộc đã gắn liền với Phật giáo”24. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần yêu nước lại sục sôi trở lại. Yêu nước là bản sắc của dân tộc. Do đó “chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây bản chất Việt Nam biểu lộ rõ ràng, đầy đủ, tập trung lớn nhất hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước trở thành một triết lý nhân sinh của con người Việt Nam, và nếu dùng từ “đạo” với nguyên ng- hĩa của nó là “đường”, là hướng đi thì chủ nghĩa yêu nước đích thực là đạo của Việt Nam”25.
Đạo đức Phật giáo không chỉ thể hiện ở chủ nghĩa yêu nước mà còn thể hiện ở tinh thần nhân đạo của người Việt Nam, sẵn sàng xóa

- Nguyễn Tài Thư (chủ biên), (1988), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 399.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
đi những hận thù, oán ghét. Đạo Phật với phương châm “tự giác”, “giác tha”, nghĩa là không chỉ giải thoát chính mình mà còn quan tâm đến sự giải thoát cho người khác, không chỉ biết đến lợi mình mà còn nghĩ đến lợi mọi người. Điều này thể hiện tinh thần đạo đức nhân ái của đạo Phật và đạo đức truyền thống dân tộc “thương người như thể thương thân”. Có thể nói Phật giáo gần gũi và đồng hành cùng với dân tộc, chính truyền thống sẵn có của dân tộc hòa quyện vào giáo lý nhà Phật tạo nên chủ nghĩa nhân đạo mang màu sắc Việt Nam. “Phật giáo trong tư tưởng cũng như trong văn hóa, nhìn chung đã mang tính chất thế tục, giản dị và do đó đã thích ứng và hòa nhập vào xã hội Việt Nam”26.
Tư tưởng đạo đức Phật giáo “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”… đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người Việt Nam. Đó cũng là bài học về đạo lý nhân quả mà các bậc làm cha mẹ giáo dục con cái. Người Việt Nam có khi không nghĩ đó là giáo lý đơn thuần của nhà Phật, mà nó còn là nhân sinh quan của đại đa số con người Việt, nhằm giáo dục tinh thần hướng thiện. Các quan niệm nhân quả, luân hồi, nghiệp báo của nhà Phật có nét tương đồng trong quan niệm về linh hồn của người Việt. Người Việt quan niệm về linh hồn rằng: sống vị tha, thương người, làm thiện, lánh ác thì chắc chắn sau khi chết linh hồn sẽ được tái sinh về cõi lành, và ngược lại thì đọa vào cõi ác. Đó là quan điểm bất di bất dịch của người Việt. Họ tin rằng tất cả những người tốt, người thiện sẽ được bù đắp ở kiếp sau. Chính điều này có ý nghĩa tích cực trong việc tự giác trau dồi đạo đức tự thân, góp phần hình thành nên những quan niệm sống giàu tính nhân bản, nhân văn sâu sắc.
Mặt khác với phương châm: “Đạo pháp – dân tộc – chủ nghĩa xã hội”, đạo Phật đã thể hiện tinh thần nhập thế khi dung hòa với các tín ngưỡng bản địa, cổ truyền, và cải biến phù hợp với tâm thức của người Việt. Triết lý về lòng từ bi, tình yêu thương của Phật giáo rất phù hợp và có nét tương đồng với tinh thần nhân ái vốn có của

![]()
-
- Sự hài hòa giữa đạo đức Phật giáo và đạo đức con người Việt Nam hiện nay
Ngay từ rất sớm từ khi du nhập vào Việt Nam, đặc biệt là thời nhà Trần, Phật giáo đã có sự ảnh hưởng rất lớn không chỉ đối với quần chúng nhân dân lao động mà còn ảnh hưởng đến đời sống chính trị của dân tộc. Các bậc vua chúa, quan thần đều hết lòng mộ đạo. Thời này Phật giáo được xem là quốc giáo (thế kỷ X-XV) xuất hiện nhiều quốc sư tham gia vào công việc triều chính của đất nước như: Sư Vạn Hạnh, Ngô Chân Lưu, Đỗ Pháp Thuận, Huyền Quang… Giai đoạn này, Phật giáo được các triều đại lấy làm công cụ để tập hợp quần chúng nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Nhà Nho Lê Quát trong thời nhà Trần có nói về sự ảnh hưởng của Phật giáo như sau:
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
người Việt như: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no, thương người thư thể thương thân, một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, chị ngã em nâng, lá lành đùm lá rách…”. Lòng từ bi của đạo Phật được thể hiện thông qua việc không sát sinh mà phải phóng sinh. Con người sống chan hòa yêu thương, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau. Đó cũng là nhân tố quan trọng góp phần chiến thắng kẻ thù xâm lược.
Bên cạnh đó, đạo đức Phật giáo và truyền thống dân tộc đã tạo nên những nét đặc sắc trong tư duy, văn học, nghệ thuật của người Việt Nam. Cho nên các câu chuyện dân gian, chuyện cổ tích đều lấy cảm hứng từ triết lý nhân quả của đạo Phật như: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, thiện giả thiện báo… nhằm hướng đến giáo dục đạo đức cho các thế hệ con cháu.
Như vậy, với giáo lý đạo đức, mang đậm chất nhân văn, Phật giáo đã để lại ảnh hưởng sâu sắc đến đạo đức, tâm lý, lối sống của người Việt Nam. Đạo làm người của người Việt và đạo đức Phật giáo đã hòa quyện, bám rễ vào nhau. Những quan điểm về đạo đức của Phật giáo góp phần làm phong phú thêm cho nền đạo lý truyền thống dân tộc. Phật giáo là viên gạch trong ngôi nhà đạo đức truyền thống dân tộc.
- Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích (2000), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 237.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
“Thuyết họa phúc của nhà Phật tác động đến con người, sao mà người ta tin theo sâu sắc và bền vững như thế? Trên thì vương công, dưới thì thường dân, hễ bố thí vào việc nhà Phật, thì dẫu đem hết tiền của cũng không tiếc. Nếu ngày nay gửi gắm vào tháp chùa thì mừng rỡ như nắm được khoán ước để lấy quả báo mai sau. Cho nên từ kinh thành ngoài đến châu phủ, cho tới thôn cùng ngõ hẻm, không mệnh lệnh mà người ta vẫn theo, không thề thốt mà người ta vẫn tin. Chỗ nào có người ở tất có chùa Phật, bỏ rồi lại xây, hỏng rồi lại sửa, chuông trống lâu đài chiếm đến phân nửa phần đất so với dân cư”27.
Từ thế kỷ XV trở đi thì Phật giáo cũng theo sự suy tàn của chế độ phong kiến mà mất đi sự ảnh hưởng của mình, nhường chỗ cho Nho giáo. Giai cấp phong kiến lấy Nho giáo làm công cụ để trị nước. Các tư tưởng về giải thoát, từ bi, cứu khổ của Phật giáo được thay bằng tư tưởng trung quân, quân thần, phụ tử của Nho giáo. Mặc dù vậy nhưng Phật giáo vẫn có sức ảnh hưởng rất lớn đối với cộng đồng xã hội.
Đến những năm đầu thế kỷ XX thì xuất hiện phong trào chấn hưng Phật giáo từ Nam ra Bắc. Đạo Phật đã nêu cao tinh thần nhập thế của mình, cùng đoàn kết với nhân dân đấu tranh vì độc lập dân tộc – chủ nghĩa xã hội. Từ đó Phật giáo một lần nữa được củng cố và ảnh hưởng mạnh đến đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Phật giáo được người Việt xem là triết lý sống, là chỗ dựa tinh thần của mình. Các giá trị đạo đức của Phật giáo là một bộ phận không thể thiếu và rất phù hợp với đạo đức truyền thống của người Việt Nam. Chúng được biểu hiện ở một số điểm:
Một là, tính nhân văn, nhân bản, lấy con người làm trung tâm. Đạo Phật luôn đề cao vị trí và vai trò của con người. Điều này khác biệt với tôn giáo khác khi họ thừa nhận vai trò tối cao của thần linh trong việc quyết định số phận của con người. Dù mọi loài đều bình đẳng về Phật tính, nhưng con người là ưu việt về trí tuệ, có khả năng

![]()
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
đạt đến sự giải thoát. Đức Phật nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Chính vì xem con người là trung tâm nên toàn bộ giáo lý Phật giáo đều hướng đến các giá trị đạo đức nhân sinh của con người.
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là chế độ dựa trên nền tảng lấy lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội làm trung tâm nhưng đảm bảo lợi ích cho từng cá nhân, lợi ích cá nhân gắn liền với lợi ích tập thể, và lợi ích tập thể thống nhất với lợi ích cá nhân. Trong đó các chuẩn mực, giá trị đạo đức cũng như tất cả các giá trị từ vật chất đến tinh thần đều cùng chung mục đích phục vụ lợi ích của mọi người và toàn xã hội.
Các tư tưởng đạo đức Phật giáo không chỉ ảnh hưởng tích cực đối với nền đạo đức truyền thống của dân tộc mà nó còn có những bộ phận phù hợp với nền đạo đức xã hội chủ nghĩa hiện nay. Chẳng hạn như tính hướng thiện của Phật giáo là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng bình đẳng, hòa bình của Phật giáo phù hợp với xu hướng hòa đồng liên kết giữa các dân tộc trên thế giới trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, lòng từ bi, bác ái góp phần cứu giúp người hoạn nạn, giữ vững tinh thần lá lành đùm lá rách của dân tộc, triết lý vô thường, vô ngã giúp con người giảm bớt cái tôi vị kỷ, phát triển tâm vị tha yêu thương con người. Đạo đức Phật giáo khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy chữ hiếu làm đầu: “hạnh hiếu là hạnh Phật, tâm hiếu là tâm Phật”, muôn việc ở thế gian không gì hơn công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ. Điều này cũng rất phù hợp với đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây của dân tộc.
Hai là, tôn trọng lợi ích và nhân phẩm của người khác. Tinh thần này được thể hiện qua “Ngũ giới”: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu của đức Phật nhằm thiết lập trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, xã hội và quốc gia. Trong xã hội ta hiện nay luôn coi trọng sự sống, môi trường sống, xã hội không còn trộm cắp, hạnh phúc gia đình, chung thủy với nhau, không lừa dối để tạo niềm tin cho nhau, và không rơi vào
- C.Mác, Ph.Ăngghen toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993 tr. 10.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
nghiện ngập, hút chích các loại ma túy… Ngũ giới của nhà Phật rất phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình mới, giúp cho xã hội ổn định, giảm bớt các tệ nạn xã hội, các giá trị đạo đức truyền thống được phát huy.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, con người được thừa hưởng những thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, sản phẩm làm ra dồi dào, đời sống vật chất con người được nâng cao. Song chính hoàn cảnh ấy con người lại đánh mất đi “chính mình”. Con người bị lệ thuộc vào các sản phẩm mình làm ra, dẫn đến phá vỡ các mối quan hệ giữa người với người, giữa con người với tự nhiên và xã hội. Các Mác đã từng nói về thực tế này như sau: “Chúng ta thấy rằng máy móc có một sức mạnh kỳ diệu rút ngắn lao động của con người, làm cho lao động sản sinh dồi dào hơn, nhưng nó lại đem đến cho con người nạn đói và sự kiệt quệ. Những nguồn của cải mới, trước đến nay chưa từng có, do một phép lạ nào đó kỳ quặc và khó hiểu biến thành ngọn nguồn của sự nghèo khổ. Chiến thắng của kỹ thuật dường như được mua bằng sự sa đọa về đạo đức. Người ta có cảm tưởng rằng nhân loại càng chinh phục tự nhiên bao nhiêu thì con người càng trở thành nô lệ của sự đê tiện của chính mình bấy nhiêu”28.
Trước thực trạng đó, bằng tinh thần nhân văn, nhân ái, tôn trọng nhân phẩm và danh dự của con người, đạo đức Phật giáo giúp con người quay về với chính mình, nhận ra bản tính chân thật của mình để sống hài hòa giữa tự nhiên và xã hội loài người.
Ba là, hướng đến một nền hòa bình cho quốc gia và thế giới. Đạo đức Phật giáo với tư tưởng từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha, luôn đề cao và tôn trọng sự sống của mọi người mọi loài. Vì vậy đạo Phật luôn hướng đến sự an lành và hòa bình cho quốc gia và thế giới, phản đối các cuộc chiến tranh xâm lược, phản đối việc sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt, kêu gọi phóng sanh, bảo vệ môi trường sống. Điều này có điểm tương đồng và phù hợp với truyền thống yêu chuộng hòa bình của dân tộc.

![]()
- GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
Nói một cách khái quát, thì đạo đức Phật giáo có nhiều điểm tiến bộ và tích cực hơn so với các trường phái triết học đương thời và có những đóng góp to lớn cho nền đạo đức của nhân loại. Khi xây dựng các phạm trù, chuẩn mực, mô hình và nếp sống đạo đức, Phật giáo đã tạo nên một nền đạo đức lấy con người làm trọng tâm. Giá trị cao đẹp nhất và cơ bản nhất của đạo đức Phật giáo là giá trị nhân văn và giá trị thực tiễn.
-
- Giá trị nhân văn
Một là, đạo đức Phật giáo xem con người là trọng tâm, đề cao vai trò và vị trí con người
Có thể nói giá trị lớn nhất trong đạo đức Phật giáo là đề cao vị trí và vai trò của con người, xác định “con người là tâm điểm của xã hội loài người”. Phật giáo khẳng định tất cả mọi người đều có “Phật tính”, mọi người sẽ đạt được hạnh phúc nếu thực hành điều thiện, lánh xa điều ác, chuyên cần trau dồi đạo đức trong cuộc sống của chính mình.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam ta phải tiến hành nhiều cuộc kháng chiến chống lại các thế lực ngoại xâm để giành và bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Trải qua những cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ, chịu đựng biết bao mất mát, hy sinh, hơn ai hết, dân tộc ta nhận rõ giá trị của hòa bình, độc lập, tự do. Bởi vậy, yêu chuộng hòa bình là một trong những truyền thống nổi bật, là nét đẹp văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
Như vậy, tính nhân văn, nhân bản, tôn trọng lợi ích, nhân phẩm của người khác, yêu chuộng hòa bình cho quốc gia và nhân loại không chỉ là mục đích hướng đến của đạo đức Phật giáo mà nó còn là mục tiêu tối hậu của đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Qua đó ta thấy có sự hài hòa giữa đạo đức Phật giáo và đạo đức truyền thống con người Việt Nam. Đạo đức con người Việt Nam hiện nay kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức Phật giáo.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
Đức Phật cho rằng: Con người đóng vai trò quyết định trong quá trình giác ngộ và giải thoát. Con người có thể thay đổi số phận của mình. Khi mê thì con người đau khổ, nhưng khi bắt đầu nhận biết mình mê thì con người có thể tự làm chủ lấy mình. Với ý nghĩa này Phật giáo đã thực hiện một cuộc cách mạng lớn, chuyển hướng từ tư duy sang tìm kiếm niềm tin ở chính con người chứ không phải ở một hay nhiều vị thần. Điều đó thể hiện sự phát triển vượt bậc so với các trường phái triết học Ấn Độ trước đó như triết lý trong kinh Veda, Upanishad xem vạn vật cũng như con người là biểu hiện của đấng sáng tạo tối cao, toàn năng Brahman.
Phật giáo đã đưa ra một hướng tiếp cận mới về con người, đặt con người ở vị thế trung tâm trong các mối quan hệ xã hội. Từ đó khẳng định chỉ có con người và chính con người chịu đựng những nghiệp quả và hành động của mình đem lại, họa phúc, sướng khổ là do con người quyết định, con người làm chủ vận mệnh của chính mình.
Mặt khác, Phật giáo bao giờ cũng khẳng định khả năng của con người là vô tận, nếu con người có ý chí phấn đấu, bản thân mình cũng như hoàn cảnh của mình đều có thể cải tạo được theo hướng tiến bộ, nếu người thực sự muốn cố gắng.
Hai là, đạo đức Phật giáo kêu gọi con người hành thiện tránh ác, vô ngã vị tha, mang tình thương, bình đẳng đến với mọi người
Chính vì lòng từ bi, nhân ái của đức Phật mà Ngài cảm nhận và đau xót trước nỗi khổ trầm luân của chúng sinh. Do đó Ngài đã quyết định từ bỏ địa vị, quyền lực, giàu sang, tình thâm rời khỏi hoàng cung mà vào rừng sâu tu tập, giác ngộ và cứu muôn loài. Ngài quan niệm rằng: tất cả mọi người và mọi loài đều có Phật tính. Nhưng tùy thuộc vào khả năng của mỗi loài nhanh hay chậm mà thôi. Ngài nói: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Lời nói đó như mang một thông điệp về tinh thần dân chủ, bình đẳng trong đạo đức Phật giáo.
Trong thời đại ngày này, con người đang sống trong bối cảnh mà ở đó danh vọng, quyền lực dường như thống trị đến cực điểm, chiến
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
tranh vẫn còn xảy ra ở một số khu vực trên thế giới, chay đua theo kinh tế, chính trị, quân sự làm cho con người xung đột lẫn nhau, ảnh hưởng đến nền hòa bình của nhân loại. Do đó nếu vận dụng những giá trị nhân văn này của đạo đức Phật giáo vào cuộc sống thì có thể kết nối con người xích lại gần với nhau hơn, giúp con người sống tri túc, có giới hạn và biết đấu tranh chống những tư tưởng không lành mạnh, giúp con người biết yêu thương lẫn nhau và tha thứ cho nhau.
Ba là, đạo đức Phật giáo đề cao tinh thần phản tỉnh tự giác con người
Phật giáo thiên về nội tâm, phản tỉnh hơn là xử lý các quan hệ bề ngoài. Cho nên Phật giáo phát huy tối đa tính tự chủ cá nhân trong việc thực hành các quy tắc đạo đức. Sự phán xét của đạo đức là ng- hiệp báo, nghiệp quả, nó điều chỉnh đạo đức của mỗi người theo quy luật nhân - quả. Mặt khác Phật giáo cũng không thừa nhận sự sáng tạo của một đấng siêu nhiên nào, mọi giá trị luân lý, đạo đức đều diễn ra trong thế giới nhân sinh chứ không phải do một thế lực nào chi phối. Đây là điểm ưu trội của Phật giáo so với các tôn giáo khác.
Bốn là, đạo đức Phật giáo đề cao việc rèn luyện trí tuệ và giải thoát con người
Mục tiêu tối hậu của đạo đức Phật giáo chính là giải thoát, là chấm dứt hết mọi khổ đau xuất phát từ “vô minh”. Trong Bát chánh đạo mà Ngài đã dạy thì Chánh kiến là đứng đầu tiên. Điều này nói đến yếu tố trí tuệ là kim chỉ nam cho sự giải thoát. Đức Phật đã từng nói rằng: “Như Lai chỉ là người chỉ đường, mỗi người phải tự đi đến, không ai đi thế cho ai được”. Đó là con đường của tự lực mỗi người. “Này các Tỷ kheo, hãy nương tựa nơi chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một ai khác”29.
Vai trò của trí tuệ đưa đến sự giải thoát, giác ngộ, nhận chân đúng sai, biết lắng nghe, chia sẻ để sống tốt hơn. Nhờ có trí tuệ nên con người hiểu rõ vô thường, vô ngã, nhờ vậy mà con người

![]()
29. Thích Minh Châu (2013), Đại tạng kinh Việt Nam Nam truyền, Kinh Tương Ưng bộ,, Phẩm Tự mình làm hòn đảo, Nxb. Tôn giáo, tr. 673.
-
- Giá trị thực tiễn
Một đặc sắc nữa của đạo đức Phật giáo là giá trị thực tiễn, sống động của những nguyên lý đạo đức Phật giáo, chúng ta phải là những khuôn mẫu ứng xử trong từng phút, từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm và cả đời. Mỗi người phải bộc lộ thường xuyên bằng những suy nghĩ đạo đức, lời nói đạo đức cho tới hành động đạo đức... Nhờ vậy, đạo đức Phật giáo mới được hiện thực hóa. Đó cũng chính là giá trị thực tiễn mang tính giáo dục nổi bật nhất của Phật giáo.
Trong thời đại kỹ thuật công nghệ 4.0 hiện nay, còn quá nhiều khoảng trống trong giáo dục đạo đức. Những vấn đề về đạo đức gia đình, đạo đức xã hội, những bổn phận và trách nhiệm của mình trong các mối quan hệ cha mẹ với con cái, thầy với trò, vợ với chồng, bạn bè với nhau…. cần có tiêu chí để xác định đúng. Đạo đức Phật giáo có vai trò củng cố và bù đắp các thiếu hụt trong đời sống tinh thần, giúp con người an lạc thân tâm và sống thanh thản khi hiểu được các giá trị cuộc sống mà đạo đức Phật giáo đem lại. Đó chính là giá trị thực tiễn thiết thực nhất của đạo đức Phật giáo.
Tóm lại, thông qua việc tìm hiểu các giá trị cơ bản của đạo đức Phật giáo, chúng ta có thể tìm thấy nhiều nội dung tư tưởng mang tính giáo dục sâu sắc. Mục tiêu giáo dục của đạo Phật là con người giác ngộ, con người có năng lực tự giải thoát để đạt tới hạnh phúc mà không cần đến đấng tối cao nào giúp đỡ. Đạo đức Phật giáo luôn nhắc nhở mọi người phải làm chủ các giác quan, ý thức trong
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
biết nhàm chán, từ đó ly tham, sân, si, đưa đến đoạn tận khổ đau và giải thoát.
Như vậy sự giải thoát của Phật giáo là sự đồng hành giữa từ bi và trí tuệ. Nó như hai con mắt của một con người. Nếu con người chỉ có một mắt thì không thể nhìn trọn vẹn sự vật. Từ bi mà thiếu trí tuệ thì chỉ là sự thương vay vác mướn, trí tuệ mà thiếu từ bi thì chỉ là những kiến thức khô khan. Do đó phải có cặp mắt từ bi và trí tuệ mới có thể nhận thức rõ bản chất sự vật.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
suy nghĩ, lời nói, hành động để bớt đi đau khổ của nghiệp ác. Trong đó Giới là con đường bắt đầu và duy nhất đưa đến giải thoát. Nhờ giới mà sinh định, nhờ định phát tuệ. Muốn đi đến mục đích cứu cánh tối thượng không gì hơn là phải hành trì, tôn trọng giới luật để có một cuộc sống hoàn toàn an lạc, hạnh phúc ngay trong cuộc đời này và tại đây. Do đó, suy cho cùng giá trị nền tảng và cơ bản nhất của đạo đức Phật giáo là giá trị nhân bản và giá trị thực tiễn, tức là thực hành cái tính nhân bản đó.
KẾT LUẬN
Như vậy, đạo đức Phật giáo đã và đang ảnh hưởng đến đạo đức con người Việt Nam hiện nay. Đạo đức Phật giáo nổi bật với tư tưởng về hành thiện, từ bi, đem tình yêu thương đến với mọi người, tu tâm, và xây dựng các mối quan hệ xã hội đã định hướng cho lý tưởng sống con người và trở thành kim chỉ nam hướng con người đến Chân – Thiện – Mỹ. Chính vì vậy, mà con người đã tìm thấy ở đạo đức Phật giáo một nơi để gửi gắm niềm tin, một niềm an ủi tinh thần che chở họ trước những cám dỗ và thử thách của cuộc đời. Phật giáo cũng như các giá trị truyền thống của dân tộc luôn đề cao và ca ngợi những giá trị cao quý của lòng nhân ái, tình yêu thương con người và sống hài hòa với tự nhiên. Phật giáo lấy con người làm trung tâm để thấu hiểu nỗi khổ của con người và tìm cách giải thoát con người khỏi nỗi khổ đó. Với phương châm “từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha”, Phật giáo hướng con người đến một lối sống nhân bản biết yêu thương, đem niềm vui và quan tâm đến với mọi người mà quên mình, hướng con người biết cảm thông với những người có hoàn cảnh khó khăn, biết sống vì người khác, tiến tới xây dựng một xã hội nhân ái, lành mạnh.
Có thể nói đạo đức Phật giáo với những giá trị tinh túy của mình đã được người Việt Nam tiếp nhận và biến thành một phương thức để thỏa mãn tinh thần không chỉ trong lịch sử mà còn cả trong hiện tại. Với triết lý “hướng thiện, vô ngã vị tha” đạo Phật đã dễ dàng đi vào lòng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức con người. Thực tế đã chứng minh đạo đức Phật giáo và đạo đức
***
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
con người Việt Nam có nét tương đồng. Phật giáo đã có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và sống trong lòng dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, trước những biến đổi của thời đại, các giá trị đạo đức Phật giáo lại một lần nữa được kiểm chứng. Chính đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam trong những năm qua cho thấy Phật giáo đang được hồi sinh. Hội thảo 35 năm thành lập và phát triển Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh là minh chứng cho sự hồi sinh ấy. Với phương châm Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội, tốt đạo đẹp đời, Phật giáo nói chung và đạo đức Phật giáo nói riêng đã có những đóng góp to lớn cho công cuộc đổi mới của đất nước. Do đó nghiên cứu nội dung tư tưởng đạo đức Phật giáo, nhìn nhận và đánh giá nó là một điều vô cùng quan trọng để tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy, giáo dục đạo đức, lối sống con người Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
Tài liệu tham khảo
Thích Minh Châu dịch (1993), Kinh Tương Ưng bộ III, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. HCM.
Đoàn Trung Còn (1992), Phật học Từ điển, Nxb. TP. HCM.
Doãn Chính (2008), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ cổ đại, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Doãn Chính (Chủ biên, 2015), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Học viện Chính trị Quốc gia (2000), Giáo trình đạo đức học, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2000), Từ điển Bách khoa Việt Nam 1 (A-Đ), Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Giáo trình triết học Mác - Lênin,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đình Tường (2006), „Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trước tác động của toàn cầu hóa“, Triết học, số 5.
Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên, 2001), Một số vấn đề về lối sống đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Thích Minh Thành chuyển ngữ (2013), Đạo đức đa tôn giáo, tập 1, Nxb. Phương Đông, TP. HCM.
Trần Văn Giàu (1993), Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội.
Đặng Thị Lan (2006), Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam hiện nay, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC VÀ XÃ HỘI
đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Viện Triết học (1986), Những vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
Thích Minh Châu (2002), Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1995), Đạo đức học Phật giáo, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
Hammalawa Saddhatissa, Thích Thiện Chánh dịch (2017), Đạo đức học Phật giáo, Nxb. Hồng Đức.