VAI TRÒ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM
TS. Lê Đức Hạnh
Phật giáo truyền bá vào Việt Nam hơn 2.000 năm và ngày càng có nhiều đóng góp tích cực trong lĩnh vực y tế, thiện nguyện xã hội, văn hóa
- nghệ thuật, giáo dục… Trong lĩnh vực giáo dục, Phật giáo có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho con người Việt Nam, định hình bản sắc đạo đức Phật giáo Việt Nam. Bài viết trình bày về những nội dung, mục tiêu cơ bản trong giáo dục đạo đức của Phật giáo, đồng thời chỉ ra vai trò quan trọng của giáo dục đạo đức Phật giáo. Phật giáo đã góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển của xã hội Việt Nam.
- ĐẶT VẤN ĐỀ
Phật giáo hiện nay là tôn giáo lớn thứ 3 trên thế giới (sau Kitô giáo và Hồi giáo) đã du nhập vào Việt Nam hơn 2.000 năm. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Phật giáo Việt Nam đã có nhiều đóng góp trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Trong tiến trình lịch sử của dân tộc, Phật giáo đã đóng góp nhiều trong lĩnh vực nghệ thuật, thiện nguyện xã hội, văn hóa, y tế, giáo dục. Trong lĩnh vực giáo dục, Phật giáo đóng góp lớn về giáo dục đạo đức, lối sống cho con người Việt Nam, góp phần quan trọng trong việc định hình các quan niệm,
chuẩn mực và hệ giá trị đạo đức trong xã hội. Từ khi du nhập đến nay, tư tưởng về đạo đức nhân sinh của Phật giáo là một tư tưởng xuyên suốt và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Trong bối cảnh hiện đại hóa ngày càng mạnh mẽ, tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, sự mất cân bằng sinh thái, tình trạng đói nghèo, thất học và bạo lực tràn lan… thì đạo đức Phật giáo có vai trò quan trọng trong việc góp phần giảm thiểu những vấn đề đó. Phật giáo giúp con người thay đổi cách tư duy, lời nói, hành vi theo con đường chánh đạo trong mối quan hệ hài hòa giữa người với người và với môi trường tự nhiên. Với mục tiêu tối thượng vì hạnh phúc và an lạc cho nhân sinh, Phật giáo luôn có trách nhiệm chia sẻ, giải quyết những vấn nạn xã hội vì sự ổn định và phát triển của xã hội. Đánh giá ý nghĩa, vai trò của giáo dục đạo đức Phật giáo sẽ giúp cho chúng ta nhận thức rõ hơn, đúng hơn những đóng góp to lớn của Phật trong vấn đề này để từ đó có những chính sách phù hợp thúc đẩy và phát huy hơn nữa những giá trị trân quý của Phật giáo Việt Nam.
- NỘI DUNG
- Một số định nghĩa liên quan
* Định nghĩa giáo dục
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “giáo dục” là: “Giáo dục 1. (động từ). Hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. 2. (danh từ). Hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy giáo dục của một nước”.1 Dù ở xã hội nào, quốc gia nào thì giáo dục cũng đều lấy con người làm đối tượng, nhằm phát triển ba phương diện trí tuệ, tình cảm, thể chất, mặc dù có những cấp độ/mức độ khác nhau. Giáo dục bao gồm việc dạy và học, với việc truyền thụ, phổ biến tri thức qua các thế hệ, nhằm đánh thức và trau dồi khả năng, năng lực tiềm ẩn, trí tuệ của mỗi người. Có 3 môi trường

![]()
-
-
- Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, 2010, tr.379.
để giáo dục tồn tại và phát triển qua các thời đại là: gia đình, nhà trường và xã hội.2
“Đạo đức” bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris) - lề thói, đạo nghĩa. Khái niệm đạo đức ở Trung Quốc xuất hiện vào đời nhà Chu, dùng để nói đến nhân đức, đức tính, đạo nghĩa, nguyên tắc luân lý. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa “đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội bao gồm những chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng (gia đình, làng xóm, giai cấp, dân tộc hoặc toàn xã hội). Căn cứ vào những chuẩn mực ấy, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và ác, về cái không được làm (vô đạo đức) và về nghĩa vụ phải làm”3. Và, đạo đức cũng được định nghĩa “là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”4.
- Khái niệm đạo đức Phật giáo
Có thể thấy toàn bộ giáo lý của Đức Phật là một giáo lý đạo đức, được xây dựng trên tư tưởng của giải thoát luận. Theo Phật giáo “Đạo là chánh pháp, đức là đắc đạo, là không làm sai lệch nền chánh pháp”, hay “Các chân tính, các nguyên lý tự nhiên là đạo; vào được lòng người, cảm ứng với người là đức. Đạo đức là nền pháp giáo mà người ta nên theo”5. Từ chánh pháp về giải thoát của Phật giáo cho thấy mọi giá trị đạo đức Phật giáo nhằm giúp con người đạt đến cảnh

![]()
-
-
- Trần Thị Hoài Hương, Giáo dục Phật giáo và ý nghĩa của nó đối với giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội, 2016, tr. 17.
- Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2000), Từ điển Bách khoa Việt Nam 1 (A-Đ), Nxb. Từ điển Bách khoa, tr. 738.
- Học viện Chính trị Quốc gia, Giáo trình đạo đức học, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 816.
- Đoàn Trung Còn, Phật học từ điển, quyển 2, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1997, tr.
524.
giới Niết bàn, nó trở thành những nguyên tắc đạo đức căn bản của xã hội. Đạo đức của Phật giáo được thể hiện qua các phạm trù phổ biến như: thiện - ác, tứ vô lượng tâm, bình đẳng, hiếu đạo v.v… Đạo đức Phật giáo lấy tư tưởng duyên khởi vô ngã làm chủ đạo. Đó là những giới điều Phật dạy nhằm ngăn chặn những điều ác, hướng con người tới những điều thiện nhằm đem đến sự an vui cho xã hội, hạnh phúc cho con người.
- Những nội dung cơ bản của giáo dục Phật giáo
Qua lời dạy của Đức Phật thì trách nhiệm đạo đức của mỗi cá nhân, là nên lựa chọn đi theo con đường của sự bố thí, xả bỏ, bao dung, để có được bình yên, thịnh vượng và hạnh phúc. Phật giáo chú trọng vào giáo dục luật nhân quả dựa trên sự hoạt động của đồng duyên khởi. Xuất phát từ quan điểm tâm được giải phóng khỏi tham, sân và si, thì con người sẽ buông xả, bình an và hạnh phúc. Để có được hạnh phúc thực sự, mỗi người cần phải tu dưỡng bản thân mình và đem sự tốt lành đến với người khác.
Từ giáo lý đến thực tiễn, có thể dễ dàng nhận thấy những nội dung cơ bản, nổi bật của giáo dục Phật giáo như dạy các chuẩn mực xã hội, các điều cấm kỵ về văn hóa và xã hội cho con người mong muốn mỗi người trở thành những công dân tốt cho xã hội. Trong chùa, có nhiều lớp học về chánh pháp để giảng dạy cho con người về những giá trị tâm linh. Trong một xã hội với đầy rẫy những tệ nạn như nghiện hút, cờ bạc, tha hóa đạo đức, suy hoại phẩm chất, tư cách thì Phật giáo với giáo lý của mình hướng con người tránh xa những điều xấu, điều “ác” đó. Khi nói đến đạo đức Phật giáo tức là đề cập đến Bát chánh đạo, Tứ vô lượng tâm, giáo pháp của Đức Phật.
Bát chánh đạo. Toàn bộ kỷ luật Phật giáo theo đạo lộ có thể được chia thành ba uẩn: Trí tuệ, Giới luật và Định tâm (thực hành thể chất, tinh thần và trí tuệ). Trong nhiệm vụ đạo đức và thành tựu triết học của Phật giáo, ba khái niệm trên chiếm vị trí rất quan trọng. Thứ nhất, Trí tuệ đề cập đến ‘Chánh tư duy’ (Suy nghĩ đúng)
và ‘Chánh kiến’ (Quan điểm đúng). Phật giáo nhấn mạnh về quan điểm đúng hay tầm nhìn đúng cho thấy các chuẩn mực đạo đức nên được dựa trên việc hiện thực hóa các sự thật cơ bản. ‘Chánh tư duy’ (Suy nghĩ đúng) có ý nghĩa xã hội quan trọng và nó cần thiết cho sự tăng trưởng của cảm giác về lòng nhân từ và lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh. Thứ hai, Giới luật là quy tắc đạo đức toàn diện với Chánh ngữ (Lời nói chân thật), Chánh nghiệp (Hành động đúng), Chánh mạng (Sinh kế đúng đắn) và Chánh tinh tấn (Nỗ lực đúng đắn). Thứ ba, Định bao gồm Chánh niệm và Chánh định. Chánh niệm là quá trình rèn luyện tinh thần, liên tục giúp loại bỏ mọi vọng niệm, mong cầu. Với sự luyện tập cơ thể và tâm trí dẻo dai được đào tạo đến mức không có ham muốn hay sự từ chối nào có thể len lỏi vào và người khao khát xây dựng nhân cách đạo đức mạnh mẽ bằng cách trở nên hăng hái, cảnh giác, tự chủ và im lặng với Chánh định (Suy ngẫm đúng) của quá trình đạo đức và tâm trí trở nên bình tĩnh và thanh thản.
Tứ vô lượng tâm. Trong giáo lý Phật giáo đó là Từ vô lượng: tâm lành hướng về mọi chúng sinh; Bi vô lượng: xót thương và cứu giúp tất cả chúng sinh; Hỷ vô lượng: tâm thức vui mừng và hân hoan khi nhận thấy những điều lành của chúng sinh; Xả vô lượng: buông xả không chỉ cho việc thiết lập mà còn duy trì và phát triển một xã hội tốt đẹp. Từ vô lượng là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong đạo đức Phật giáo có ý nghĩa xã hội to lớn. Đó là một trong những nguyên tắc của giới luật cầu mong hạnh phúc của tất cả các sinh vật trong vũ trụ, có duyên hoặc vô duyên, sinh ra hoặc chưa được sinh ra. Từ vô lượng còn nghĩa là không làm hại, chê bai, nói xấu người khác. Tâm bi là biểu thị sự tu luyện của một cảm giác thương xót cứu khổ cho hết thảy chúng sinh. Phật tử không chỉ suy nghĩ từ bi mà còn phải tích cực hành động không ngừng nghỉ cho đến khi giúp hết người khác thoát khỏi cảnh khổ. Đặc điểm chính của tâm bi là dứt trừ đau khổ cho người khác. Nó dạy con người tự nguyện phục vụ những người khác nhằm loại bỏ những đau khổ của họ với tấm lòng vị tha mà không có bất kỳ sự mong cầu đền ơn. Đó là điều kiện mang lại hòa bình cho xã hội. Tâm bi cũng là
nền tảng để giải quyết tất cả các xung đột trong xã hội. Tâm hỷ là phạm trù đạo đức quan trọng bao gồm thực hành để có cảm giác vui sướng trước hạnh phúc của người khác, kể cả kẻ thù. Nó có nghĩa là hành động đạo đức vì lợi ích của nhân loại. Trong xã hội, đố kỵ chính là nguyên nhân của những hành vi xấu xa. Tâm bi dạy người ta cảm thấy hạnh phúc và tự do trong sự thịnh vượng khác. Tâm xả là trạng thái siêu phàm, nơi không có sự phân biệt giữa giàu và nghèo, thấp và cao. Đức tính công bằng được ghi nhận trong giáo lý Phật giáo. Những người tu tập theo Tâm xả loại bỏ sự đeo bám và ác cảm mong muốn hoặc có cùng một thái độ đối với cả người tốt và người xấu, người làm ác và người làm tốt v.v... Điều kiện như vậy hoàn toàn vô hiệu hóa và giải quyết tất cả các xung đột.
Có thể thấy ‘Tứ vô lượng tâm’ hiển thị phương pháp rèn luyện khía cạnh cảm xúc. Tâm bi (lòng trắc ẩn) hướng đến những sinh mệnh bị ảnh hưởng, nó trái ngược với sự tàn nhẫn. Tâm hỷ (cùng vui với người khác) là niềm vui được trải nghiệm khi nhìn thấy một người có lý do nào đó để hạnh phúc, nó trái ngược với sự đố kị và ghen tị. Tâm từ (từ vô lượng) lòng tốt yêu thương, là mong muốn tốt cho tất cả chúng sinh, nó trái ngược với hờn oán, căm thù. Tâm xả được thực hành bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, nó trái ngược với thiên kiến và thiên lệch một phần. Tất cả các trạng thái siêu phàm này được gọi chung là Tứ vô lượng tâm, tạo nền tảng tốt cho việc thành lập các xã hội bền vững. Phật giáo đề cao con người, giá trị của con người, không có gì cao hơn và cao quý hơn con người. Triết lý của Phật giáo được quan tâm với Sự giải thoát con người khỏi đau khổ. “Sau đó, người ta đối xử với mọi người như bình đẳng công nhận phẩm giá của con người là con người, không có đẳng cấp, không bất bình đẳng, không có ưu thế; tất cả đều bình đẳng, là triết lý của Đạo Phật”6. Phật giáo thừa nhận thực tế rằng con người đại diện cho giá trị cao nhất trên thế giới. Con người là trung tâm của mọi tư tưởng và hành động. Phật giáo quan niệm Đạo pháp có nghĩa là một trật tự đúng đắn trong quan hệ của con người. Trên

![]()
-
- Ambedkar, B.R; Te Buddha and his Dhamma, PES (Bombay) 1957, p.301.
thực tế, giáo pháp, là sự công bình, có nghĩa là mối quan hệ đúng đắn giữa con người và con người trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống.7 Hơn nữa, đạo đức là bản chất của Pháp. Đạo đức trong Đạo pháp phát sinh từ sự cần thiết trực tiếp của con người để yêu con người, vì lợi ích của mình mà con người phải yêu con người8. Pháp cũng bao gồm Trí tuệ và Từ bi.
Phật giáo không chỉ giáo dục những giáo lý như nêu ở trên, Phật giáo còn chú trọng giáo dục những nội dung phù hợp với đạo đức xã hội. Phật giáo qui định những nhiệm vụ, bổn phận của cư sĩ nhằm đề cao đạo đức xã hội, trách nhiệm của con người trong các mối quan hệ giữa chồng và vợ; cha mẹ và con cái; thầy và trò; bạn bè và đồng nghiệp… Các mối quan hệ này được dựa trên đạo đức chân nghĩa của đồng loại, tinh thần công lý cao quý và tinh thần hợp tác đạo đức của con người. Theo Phật giáo, tám khái niệm hình thành con đường (bát chính đạo) có tầm quan trọng lớn về mặt xã hội học. Tinh thần đạo đức được rao giảng thông qua điều này là định hướng hành động và năng động. Sự kết thúc cuối cùng của cuộc sống chính là sự giải thoát, có nghĩa là chấm dứt khỏi những đau khổ, nhưng ý nghĩa sâu xa trong sự giáo dục này là nó không bao giờ cho phép một người từ bỏ trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội của mình. Điều dễ dàng nhận thấy là Phật giáo đặt cuộc sống của con người trong toàn bộ xã hội, điều này được minh chứng qua hầu hết các bài pháp thoại của Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp nhằm mục đích là để giải phóng nhân loại khỏi đau khổ. Pháp không chấp nhận sự thờ ơ đối với trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội. Trái lại, Pháp luôn giáo dục con người đi theo con đường đúng đắn và khắc sâu những giá trị và đức tính tốt đẹp của con người vào chính họ. Từ giáo lý Phật giáo, mỗi cá nhân phải tu tập Từ, Bi, Hỷ, Xả nhằm phục vụ đồng loại và xã hội. Phật giáo dạy con người phải ‘Hành xử đúng đắn’, ‘Trí Tuệ’, ‘Giới Hạnh’, và ‘Chánh Định’. Từ đó, con người có thể dễ dàng

![]()
-
- Kanchan Saxena, Phương pháp tiếp cận đạo đức Phật giáo đối với các xã hội bền vững, in trong “Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2019: Phật giáo và Giáo dục đạo đức toàn cầu”, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr. 82.
- Kanchan Saxena, tr. 82.
chấm dứt những đau khổ, được giải thoát và được tới Niết bàn. Lối sống của Phật giáo tập trung toàn bộ vào đạo đức xã hội và kỷ luật tâm linh”9.
Mục tiêu giáo dục của Phật giáo là giáo dục con người. Phật giáo chủ trương có ba tính thiện, bất thiện, vô ký, bản chất con người là duyên khởi và vô ngã. Con người là một hữu thể có đặc tính như vậy. Phật giáo là một hệ thống giáo dục rất đặc biệt, nhắm đến mục tiêu đặc biệt. Giáo dục Phật giáo muốn giúp con người có hạnh phúc đích thực, biết tu tập, chuyển hóa tham, sân, si; biết thanh lọc các pháp tham, sân, si thành thiện pháp vô tham, vô sân, vô si; biết chuyển hóa phiền não thành bồ đề; biết vun trồng và chăm bón những hạt giống chính niệm ở trong tâm thức của mỗi con người. Mục tiêu giáo dục Phật giáo hướng đến là giúp tất cả các Tăng ni, Phật tử tại gia theo Phật là để đạt được thanh tịnh tâm ý, để đạt đến trạng thái giải thoát, trạng thái niết bàn. Đức Phật đã nêu rõ “Cũng như nước biển chỉ có một vị là vị mặn, này Paharada, Pháp và Luật của ta chỉ có một vị, là vị giải thoát”10. Phật giáo quan niệm hạnh phúc chỉ đến thật sự khi giải thoát đồng nghĩa với tinh thần vô ngã, tâm linh con người thoát khỏi tham, sân, si… bỏ qua tất cả phiền não và an vui trong cảnh giới Niết bàn. “Mục tiêu của giáo dục vẫn là mưu cầu hạnh phúc. Hạnh phúc, theo Phật giáo, chính là sự giải thoát tối hậu”. Giải thoát đồng nghĩa với vô ngã, vô tham, vô sân, vô si, thoát khỏi luân hồi, tuyệt đối an tịnh Niết bàn. Giúp con người có cái nhìn chính kiến vô lậu, giải thoát, cái nhìn duyên khởi, vô ngã, Đức Phật dạy: “Đây là khổ đau, đây là nguyên nhân của khổ đau, đây là sự diệt khổ và đây là con đường đưa đến sự diệt khổ”. Là con người, nếu có cái nhìn đúng đắn thì chúng ta phải tự tu tập để có thể chuyển hóa tham, sân, si thành vô tham, vô sân, vô si, và chuyển hóa khổ đau thành hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc sống này. Hạnh phúc của giải thoát có nhiều cấp độ, cũng như giải

![]()
-
- Kanchan Saxena, tr. 84.
- Trần Thị Hoài Hương, Giáo dục Phật giáo và ý nghĩa của nó đối với giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội, 2016, tr. 23.
thoát có nhiều cấp độ mà người ta có thể kinh nghiệm được trong đời sống hằng ngày. Nếu một người xóa bỏ được sự chấp ngã, tham, sân, si, giữ tâm an tịnh được chừng nào thì người ấy sẽ cảm nhận được hạnh phúc chừng ấy. Đây là một thực tế mà một người có thể kiểm chứng qua việc hồi tưởng lại những kinh nghiệm giải thoát từng phần hoặc từng lúc của mình trong đời sống hằng ngày. Đó có thể coi là một ý hướng về hạnh phúc trong hiện tại và trong tương lai. Giải thoát khổ đau có nhiều cấp độ như: giải thoát khỏi sự ngu muội, lòng thù hận, sự nghèo khó, một cơn bệnh, một sự bất công, áp bức, nô lệ... Giải thoát ở đây là sự giải thoát từng phần, tương đối, đồng nghĩa với sự giải phóng, sự cải thiện, phát triển... Từ đó, tiến đến sự giải thoát tối hậu là Niết bàn. Trong ý nghĩa này, mục tiêu của giáo dục Phật giáo cũng bao gồm nhiều cấp độ: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa; đấy là đi từ các mục tiêu trước mắt đến mục tiêu tối hậu, tức giải thoát trọn vẹn. Giáo dục Phật giáo không phải là phương tiện để thực hiện địa vị và quyền thế và cũng không phải là nghề nghiệp để mưu cầu sinh sống, mà phải là cứu cánh để thực hiện chí nguyện độ sanh và để giải thoát khổ đau. Giải thoát ở đây có thể hiểu là có nhiều khía cạnh, giải thoát từng phần, giải thoát từng cấp độ như giải thoát con người ra khỏi sự thù hằn, ngu dốt, bất công, nghèo đói, bệnh tật, nô lệ, áp bức,... và giải thoát cao nhất vẫn là giải thoát khổ đau. Thượng tọa Thích Chơn Thiện nói về mục tiêu giáo dục Phật giáo “một đường hướng giáo dục tốt luôn luôn nhắm đến hai mục tiêu đó là đào tạo con người xã hội và con người chính nó. Nếu thiếu đi một trong hai mục tiêu ấy là một nền giáo dục không hoàn chỉn- h”11. Giáo dục con người xã hội trong mối tương quan biện chứng hai chiều giữa cá nhân và xã hội, tạo thành động lực giữa xã hội hỗ tương và phát triển. Tức là nền giáo dục trong đó bao gồm sự phát triển tâm linh, sự quan hệ huyết thống và sự quan hệ xã hội trong những chuẩn mực nhất định. Giáo dục con người cá nhân là nhắm

![]()
-
- Trần Thị Hoài Hương, Giáo dục Phật giáo và ý nghĩa của nó đối với giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội, 2016, tr. 25.
vào các đặc tính sẵn có và đánh thức những gì tiềm ẩn trong con người trỗi dậy. Giáo dục Phật giáo hướng đến giúp con người biết phát triển tâm linh cao thượng, biết nuôi dưỡng tinh thần độc lập tự do, tự chủ và tự do sáng tạo. Tự do có nghĩa là thân và tâm không bị ràng buộc bởi các tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Các phiền não này là những khổ đau. Giáo dục Phật giáo còn giúp con người có niềm tin vững chãi, không sợ hãi, không sợ kẹt vào các thành kiến, định kiến, các tín điều và giáo điều, tin vào ý nghĩa thiện, lời nói thiện và việc làm thiện của chính bản thân mình. Mục tiêu của giáo dục Phật giáo còn là xây dựng con người hữu ích, hạnh phúc, có nhân cách tốt, con người chân thiện mỹ, có một đời sống trọn vẹn hạnh đức, tâm đức và tuệ đức để con người đó có thể góp phần xây dựng một nếp sống tốt đạo, đẹp đời và xây dựng một nền văn hóa văn minh cho nhân loại. Đào tạo những con người có kiến thức sống động, những tâm tư mới lạ, sáng suốt, có tính sáng tạo, biết khơi dậy và đánh thức những hạt giống hạnh phúc và giác ngộ nơi tự thân, những con người có tấm lòng tương trợ, tương thân, tương ái, tương kính, có tình yêu nhân loại. Giá trị của giáo dục Phật giáo là hướng đến sự phát triển toàn diện của con người qua các mặt của đời sống, đặc biệt là tâm thức, nhằm kiến tạo một đời sống trí tuệ và hạnh phúc thật sự trong cuộc đời này.12
- Vai trò giáo dục đạo đức của Phật giáo
Qua hàng thiên niên kỷ, Phật giáo có bề dày lịch sử trong việc xây dựng tư tưởng và hành động theo chuẩn mực đạo đức Phật giáo. Mặc dù điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ngày nay khác xa với thời Phật còn tại thế, nhưng đạo đức Phật giáo vẫn là công cụ hữu ích để mọi người tham gia vào các thách thức thời đại.
Giáo dục Phật giáo có vai trò quan trọng trong việc nhắm đến việc chuyển hóa bản chất con người trở thành một hình thức cao

![]()
-
- Trần Thị Hoài Hương, Giáo dục Phật giáo và ý nghĩa của nó đối với giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội, 2016, tr. 24-31.
nhất thông qua sự hoàn thiện về mặt đạo đức, trí tuệ và tinh thần. Ba năng lực hoàn hảo của cuộc sống chắc chắn dẫn dắt con người vượt qua hạnh phúc trần tục mà chính điều đó là thành tựu cao nhất mà tất cả chúng ta đều tìm kiếm. Do đó, giáo dục Phật giáo dựa trên nhu cầu tâm lý chính của tất cả chúng sinh (Rahula, 2015).13
Giáo lý của Đức Phật không phải là một triết lý suông được thiết kế chỉ để sắp xếp lại các khái niệm trong tư tưởng con người, mà chúng là một hành vi sinh động của lòng từ bi nhằm mục đích chỉ cho chúng ta cách mở rộng tâm hồn của chúng ta với sự nhiệm màu của nhận thức - nhận thức của chính chúng ta giữa nhận thức của những người khác thông qua sự suy nghĩ và kinh nghiệm tu tập giống nhau. Mục đích cuối cùng của các lời dạy trong kinh sách Phật giáo về giáo dục hoạt động như một quá trình nhận thức. Phật giáo dẫn khởi quan điểm đúng đắn (Chánh kiến); suy nghĩ đúng đắn (Chánh tư duy), lời nói đúng đắn (Chánh ngữ), hành động đúng đắn (Chánh nghiệp), sinh kế đúng đắn (Chánh mạng), nỗ lực đúng đắn (Chánh tinh tấn), chánh niệm và tập trung tinh thần đúng đắn (Chánh định) là những công cụ quan trọng để phát triển nhân cách. Tám hình thức này cũng có thể được hiểu là những bước chuyển hóa hành vi và những bước này sẽ góp phần nuôi dưỡng lối sống có giáo dục tốt trong đời sống xã hội của con người. Phật giáo thể hiện những ý tưởng rằng kiến thức và năng lực của con người phải được sử dụng cho sự thịnh vượng của nhân loại, cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Từ quan điểm giáo dục đạo đức, Phật giáo chủ trương tầm quan trọng của bình đẳng và dân chủ theo Phẩm cấp. Các thành viên của Tăng đoàn có thể được coi là một hình mẫu mẫu mực trong trật tự xã hội cũng như biểu tượng của nền dân chủ trong Phật giáo. Đối tượng cuối cùng của giáo dục Phật giáo là nhằm đạt được tự do: Tự do tư duy, tự do ý chí, tự do ngôn ngữ, tự do tư tưởng tôn giáo, v.v... Đức Phật khẳng định rằng sự tôn trọng và

![]()
-
- Edi Ramawijaya Putra, Nhìn lại những giá trị giáo dục Phật giáo và nâng cao nhận thức toàn cầu hiện nay như là những hiểu biết sâu sắc tự định hướng của các nhà sư phạm đối với thực tiễn sư phạm, in trong “Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2019: Phật giáo và Giáo dục đạo đức toàn cầu”, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr. 222.
tôn kính trong xã hội sẽ được trao tặng dựa trên cơ sở những phẩm chất và hành vi đạo đức và luân lý của một người. Sự phát triển của nhân cách là một yếu tố chính của hệ thống giáo dục. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc trau dồi sự tự tin, tự lực, tự quyết, tự trọng và tự kiểm soát. Các nguyên tắc giáo dục của Phật giáo dạy thực tế rằng một vị A la hán là người có trình độ học vấn cao nhất vì vị ấy không bị phiền não và được hưởng hạnh phúc tinh thần cao nhất. Phật giáo thúc đẩy mỗi người trên trái đất nên đạt được mục tiêu này. Phật giáo đã khuyên khi ai đó tham gia vào việc thực hành giáo dục, hành giả không nên bám víu vào quan điểm giáo điều và người thực hành giáo dục nên có tư duy phê phán và suy nghĩ phê phán về toàn bộ vòng đời.14
* Giáo dên bám víu vào quan điểm giáo điều và người thực hành giáo dục nên có tư duy phê phá
Đạo Phật dạy con người làm lành tránh dữ. Mọi việc mang tính thiện thì dốc sức thực hành, trong đó điều cốt yếu là giữ tâm ý trong sạch để không bị những phiền não quấy nhiễu. Bản chất của giáo lý Phật giáo là chỉ ra cái khổ, nguyên nhân của nỗi khổ, niềm vui khi đoạn diệt khổ và con đường đoạn tận khổ đau. Một mặt, Phật giáo chỉ rõ con đường khổ đau của con người để giúp con người tránh khổ, mặt khác Phật giáo răn dạy, khích lệ con người hành thiện để giảm bớt khổ đau. Đồng thời, Phật giáo dạy con người sống có ý thức, trách nhiệm, không ỷ lại, không chạy trốn, không đổ lỗi, không quỵ lụy van xin. Đức Phật dạy con người là chủ nhân của chính mình, là hòn đảo của chính mình. Vì vậy khổ đau hay hạnh phúc là do chính mình quyết định. “Hãy sống tự mình làm hòn đảo của chính mình, này các Tỷ kheo, hãy nương tựa nơi chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một ai khác”15. Đây là

![]()
-
- Dissanayake Mudiyanselage Kasun Dharmasiri, Vai trò của đạo đức Phật giáo trong giáo dục, in trong “Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2019: Phật giáo và Giáo dục đạo đức toàn cầu”, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr. 49-51.
- Thích Minh Châu, Đại tạng kinh Việt Nam Nam truyền, Kinh Tương Ưng bộ, Phẩm Tự mình làm hòn đảo, tập 1, Nxb. Tôn giáo, 2013, tr. 673.
tinh thần giáo dục rất lành mạnh và tích cực đối với việc giáo dục một con người tốt cả mặt cá nhân và mặt xã hội. Trên nền tảng giáo lý đó, tính thiện trong đạo đức Phật giáo xuất hiện. Thiện (akusa), như được định nghĩa trong kinh sách, là lành, tốt, có đạo đức; thuận theo đạo lý, có ích cho mình và cho người; là trạng thái tiêu diệt ác pháp. “Từ bỏ sát sinh là thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện, từ bỏ ác khẩu là thiện, từ bỏ nói phù phiếm là thiện, không tham dục là thiện, không sân là thiện, chánh tri kiên là thiện”16. Quả của thiện là sự an lạc thân tâm. Ngược với thiện là ác, bất thiện (akusala) chính là ác pháp. “Sát sinh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói hai lưỡi là bất thiện, ác khẩu là bất thiện, nói phù phiếm là bất thiện, tham dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện”17. Quả báo của bất thiện là sự khổ đau trong tâm hồn. Với quan niệm như vậy, có thể thấy xuyên suốt toàn bộ giáo lý tư tưởng Phật giáo chính là hướng con người thực hành “thiện”, thể hiện rõ nét nhất ở trong giới luật Phật giáo.
- Vai trò của giáo dục đạo đức Phật giáo trong việc giáo dục lòng từ bi cho con người
Lòng từ bi, bác ái là điểm nổi bật của giáo lý Phật giáo khuyên con người sống có đạo đức, có tình thương yêu, không phân biệt đối với mọi người và mọi loài. Theo Phật giáo thì Từ nghĩa là hiền lành, thẳng thắn, là làm vui cho người và vật, thể hiện lòng khoan dung độ lượng; Bi là thương xót, đồng cảm với người hay vật, khi thấy họ đau khổ, gặp hoạn nạn và cố cứu họ ra khỏi hoàn cảnh ấy. Từ bi là đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người, mọi loài, và cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh, quên những lợi ích của bản thân. “Từ là yêu quý chúng sinh và ban cho họ sự an vui (dữ lạc). Bi là đồng cảm sự đau khổ của chúng sanh, xót thương và trừ diệt sự đau

![]()
-
- Thích Minh Châu, Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trường bộ, tập 1, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, ấn hành, 1991, tr. 133.
- Thích Minh Châu, Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trường bộ, tập 1, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, ấn hành, 1991, tr. 112.
khổ (bạt khổ) của họ, gọi chung là Từ bi. Lòng bi của đạo Phật là trạng thái đồng tâm đồng cảm, lấy sự khổ đau của chúng sinh làm sự khổ đau của mình. Vì thế nên gọi là đồng thể đại bi. Lại vì lòng Bi của Phật rộng lớn vô tận cho nên gọi là Vô cái đại bi”18. Quan điểm từ bi, bác ái của Phật giáo được thể hiện qua các điểm sau: Một là, Phật giáo đem tình yêu thương, bình đẳng đến với mọi người; hai là, Phật giáo đề cao con người và giải thoát con người khỏi khổ đau; ba là, Phật giáo đào tạo con người “Từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha”.
-
- Vai trò của giáo dục đạo đức Phật giáo trong việc dạy con người Tu tâm
Theo Phật giáo “nhất thiết duy tâm tạo”, mọi sự việc đều do tâm tạo ra. An lạc hay khổ đau cũng từ tâm, bởi tâm. Đó chính là tâm sanh diệt, thay đổi luôn luôn, thường do tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên con người thường tạo nghiệp bất thiện nhiều hơn là nghiệp thiện. Trong giáo lý Phật giáo thì Tâm của con người vô cùng quan trọng vì nó diễn tả nhân cách của một con người. Tâm biểu lộ tư cách, hình tướng, thái độ… Do vậy, Phật giáo giáo dục con người phải biết tu tâm. Suy cho cùng tu tâm chính là thực hành Bát chánh đạo. Có thể nói, tư tưởng cơ bản của đạo đức Phật giáo suy cho cùng là hướng đến hoàn thiện nhân cách con người, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, phát triển ổn định.
-
- Vai trò của giáo dục đạo đức Phật giáo trong cân bằng môi trường tự nhiên và xã hội
Vai trò này của giáo dục đạo đức Phật giáo được thể hiện qua giáo lý Trung đạo. Cân bằng giữa môi trường tự nhiên và xã hội là sự kết hợp hài hòa và hợp lý giữa các lĩnh vực phát triển kinh tế đi đôi với việc xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường, là biện chứng giữa thế hệ hiện tại và tương lai. Công bằng và tiến bộ xã hội cũng vậy. Đó là sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường sống với việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, là phát triển văn hóa đi đôi

![]()
-
- Thích Quảng Độ dịch, Phật Quang Đại Từ Điển 6, Nxb. Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc, 2000, tr. 6597-6598.
với sự phát triển kinh tế xã hội. Điều này trong triết học Trung Hoa gọi là luật quân bình, trung dung giữa âm và dương và trong đạo Phật gọi là con đường Trung đạo.
Trong Tiểu thừa, Bát chánh đạo được xem là trung đạo vì thực hành Bát chính đạo, hành giả vừa xa lánh đời sống dục lạc và đời sống khổ hạnh, thoát khỏi Khổ. Thái độ này được Đức Phật dạy trong Kinh Chuyển Pháp Luân: “Này các Tỷ kheo, có hai điều thái quá, người xuất gia không nên theo. Một là mê đắm dục lạc, hạ liệt, phàm phu, không xứng Tánh hạnh, không thiệt lợi đạo. Hai là tu khổ hạnh, khổ đau, không xứng Tánh hạnh, không thiệt lợi đạo. Này các Tỷ kheo, chính nhờ từ bỏ hai điều thái quá này, Như Lai giác ngộ trung đạo, con đường đem đến pháp nhãn, trí huệ đưa lại an tịnh, thượng trí, chứng Niết bàn. Này các Tỷ kheo, trung đạo do Như Lai giác ngộ, đem đến pháp nhãn, trí huệ đưa lại an tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết bàn là gì? Chính là Bát chánh đạo: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm, chính định” [Kinh chuyển pháp luân].
Trung đạo ở đây là thái độ từ bỏ hai quan điểm cực đoan thế giới là trường tồn hay hoại diệt, thế giới là có (hữu) hay không có (vô). Con đường trung đạo là con đường từ bỏ hai cực đoan khoái lạc và khổ hạnh. Khoái lạc thái quá sẽ dẫn đến đời sống thấp hèn, phàm tục. Ngược lại, đời sống khổ hạnh, khắc nghiệt thái quá sẽ dẫn đến sa sút về tinh thần, suy giảm trí tuệ. Xã hội phát triển không chỉ thể hiện ở sự hài hòa giữa môi trường tự nhiên, xã hội và bảo vệ môi trường, mà chúng còn được thể hiện ở sự phối hợp nhịp nhàng, hài hòa trong suy nghĩ, lời nói và hành động. Đó là Bát chánh đạo. Con đường trung đạo đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại, vừa tạo khả năng thỏa mãn nhu cầu của thế hệ tương lai, không chỉ bảo vệ môi trường sinh thái mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, là quá trình không ngừng tăng sản xuất, đồng thời khai thác hợp lý và tiết kiệm nguồn tài nguyên v.v…
- Vai trò của giáo dục đạo đức Phật giáo trong việc xem con người là trọng tâm, đề cao vai trò và vị trí con người
Có thể nói giá trị lớn nhất trong đạo đức Phật giáo là đề cao vị trí và vai trò của con người, xác định “con người là tâm điểm của xã hội loài người”. Phật giáo khẳng định tất cả mọi người đều có Phật tính, mọi người sẽ đạt được hạnh phúc nếu thực hành điều thiện, lánh xa điều ác, chuyên cần trau dồi đạo đức trong cuộc sống của chính mình. Đức Phật cho rằng: con người đóng vai trò quyết định trong quá trình giác ngộ và giải thoát. Con người có thể thay đổi số phận của mình. Khi mê thì con người đau khổ, nhưng khi bắt đầu nhận biết mình mê thì con người có thể tự làm chủ lấy mình. Với ý nghĩa này Phật giáo đã thực hiện một cuộc cách mạng lớn, chuyển hướng từ tư duy sang tìm kiếm niềm tin ở chính con người chứ không phải ở một hay nhiều vị thần. Phật giáo đã đưa ra một hướng tiếp cận mới về con người, đặt con người ở vị thế trung tâm trong các mối quan hệ xã hội. Chính vì vậy, muốn phát triển xã hội bền vững thì không thể nào không nhắc đến vai trò then chốt của con người.
* Vai trò của giáo dục đạo đức Phật giáo trong việc kêu gọi con người hành thiện tránh ác, vô ngã vị tha, mang tình thương, bình đẳng đến với mọi người.
Chính vì lòng từ bi, nhân ái của Đức Phật mà Ngài cảm nhận và đau xót trước nỗi khổ trầm luân của chúng sinh. Do đó Đức Phật đã quyết định từ bỏ địa vị, quyền lực, sự giàu sang, tình thâm rời khỏi hoàng cung mà vào rừng sâu tu tập, giác ngộ và cứu muôn loài. Đức Phật nói: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Lời nói đó như mang một thông điệp về tinh thần dân chủ, bình đẳng trong đạo đức Phật giáo.
Trong thời đại ngày nay, con người đang sống trong bối cảnh tham vọng tiền tài, địa vị, danh vọng, quyền lực với những mâu thuẫn, xung đột khó dung hòa. Nếu vận dụng những giá trị nhân văn của đạo đức Phật giáo vào cuộc sống sẽ có thể góp phần kết nối con người xích lại gần với nhau hơn, giúp con người sống tri túc, có giới hạn và biết đấu tranh chống những tư tưởng không lành mạnh, giúp con người biết yêu thương lẫn nhau và tha thứ cho nhau. Đạo đức Phật giáo có thể sẽ giúp ích trong vấn đề này.
- Vai trò của giáo dục đạo đức Phật giáo trong việc đề cao tinh thần phản tỉnh tự giác con người
Phật giáo thiên về nội tâm, phản tỉnh hơn là xử lý các quan hệ bề ngoài. Cho nên Phật giáo phát huy tối đa tính tự chủ cá nhân trong việc thực hành các quy tắc đạo đức. Sự phán xét của đạo đức là nghiệp báo, nghiệp quả, nó điều chỉnh đạo đức của mỗi người theo quy luật nhân
- quả. Mặt khác Phật giáo cũng không thừa nhận sự sáng tạo của một đấng siêu nhiên nào, mọi giá trị luân lý, đạo đức đều diễn ra trong thế giới nhân sinh chứ không phải do một thế lực nào chi phối. Nếu con người biết tự nhìn lại chính mình thì có thể hạn chế tối đa những tiêu cực mà con người đã gây ra. Con người biết làm chủ cảm xúc, lời nói, suy nghĩ và hành động sẽ làm cho con người trở nên hài hòa với nhau. Đó cũng là yếu tố quan trọng cho sự phát triển ổn định của xã hội.
* Vai trò của giáo dục đạo đức Phật giáo trong việc đề cao việc rèn luyện trí tuệ và giải thoát con người
Mục tiêu tối hậu của đạo đức Phật giáo chính là giải thoát, là chấm dứt hết mọi khổ đau xuất phát từ “vô minh”. Trong Bát chánh đạo Đức Phật đã dạy thì Chánh kiến là đứng đầu tiên. Điều này nói đến yếu tố trí tuệ là kim chỉ nam cho sự giải thoát. Đức Phật đã từng nói rằng: “Như Lai chỉ là người chỉ đường, mỗi người phải tự đi đến, không ai đi thế cho ai được”. Đó là con đường của tự lực mỗi người. “Này các Tỷ kheo, hãy nương tựa nơi chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một ai khác”19.
Vai trò của trí tuệ đưa đến sự giải thoát, giác ngộ, nhận chân đúng sai, biết lắng nghe, chia sẻ để sống tốt hơn. Nhờ có trí tuệ nên con người hiểu rõ vô thường, vô ngã, hiểu rõ cần làm gì để phát triển xã hội bền vững, hiểu rõ cần làm gì để có sự hài hòa giữa mọi người với nhau trong xã hội, sự hài hòa giữa con người với tự nhiên trong quá trình lao động sản xuất.

![]()
-
- Thích Minh Châu, Đại tạng kinh Việt Nam Nam truyền, Kinh Tương Ưng bộ, Phẩm Tự mình làm hòn đảo, Nxb. Tôn giáo, 2013, tr. 673.
Như vậy, đạo đức Phật giáo có vai trò rất quan trọng đã và đang ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam hiện nay. Đạo đức Phật giáo nổi bật với tư tưởng về hành thiện, từ bi, đem tình yêu thương đến với mọi người, tu tâm, và xây dựng xã hội bền vững, đã định hướng cho lý tưởng sống con người và trở thành kim chỉ nam hướng con người đến Chân – Thiện – Mỹ. Chính vì vậy, mà con người đã tìm thấy ở đạo đức Phật giáo một nơi để gửi gắm niềm tin, một niềm an ủi tinh thần che chở họ trước những cám dỗ và thử thách của cuộc đời. Phật giáo luôn đề cao và ca ngợi những giá trị cao quý của lòng nhân ái, tình yêu thương con người, đặc biệt là lối sống hài hòa giữa mọi người với nhau trong xã hội và giữa con người với tự nhiên, tạo sự phát triển xã hội bền vững. Sự phát triển bền vững của một đất nước, đó chính là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo, tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, của động vật, thực vật, đồng thời nỗ lực hòa giải kinh tế với môi trường, và quan trọng nhất là nhân tố bình đẳng, công bằng và dân chủ trong xã hội. Một đất nước được xem là phát triển khi hội đủ nhiều yếu tố như: xã hội phải dân chủ, công bằng và văn minh, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với công bằng và tiến bộ xã hội, xóa đói giảm nghèo, môi trường không ô nhiễm v.v... Phật giáo lấy con người làm trung tâm để thấu hiểu nỗi khổ của con người và tìm cách giải thoát con người khỏi nỗi khổ đó. Với phương châm “từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha”, Phật giáo hướng con người đến một lối sống nhân bản biết yêu thương, đem niềm vui và quan tâm đến với mọi người mà quên mình, hướng con người biết cảm thông với những người có hoàn cảnh khó khăn, biết sống vì người khác, tiến tới xây dựng một xã hội nhân ái, lành mạnh và phát triển bền vững.20

![]()
-
- Thích Huệ Đạo, Đạo đức Phật giáo với việc phát triển xã hội Việt Nam bền vững, in trong “Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2019: Phật giáo và Giáo dục đạo đức toàn cầu”, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr. 103-108.
- NHẬN XÉT - KẾT LUẬN
Qua nội dung giáo lý Phật giáo cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo dục đạo đức Phật giáo trong cuộc sống hiện nay. Đạo Phật giáo dục con người sống thiện tâm, làm điều lành, tránh điều ác, sống yêu thương đùm bọc nhân loại. Những giáo lý của Phật giáo, nội dung đạo đức của đạo Phật góp phần tạo nên sự ổn định và phát triển của xã hội. Trong quá trình du nhập và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã và đang có nhiều đóng góp rất tích cực vì sự bình yên và phát triển của xã hội trên nhiều lĩnh vực. Trong bối cảnh hiện nay, để phát huy tốt hơn nữa vai trò của Phật giáo, giáo dục Phật giáo nói chung, giáo dục về đạo đức của Phật giáo nói riêng phải đáp ứng một số các yêu cầu sau: Thứ nhất, giáo dục Phật giáo phải thể hiện được bản sắc văn hóa Phật giáo Việt Nam; Thứ hai, giáo dục Phật giáo phải thể hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam. Giáo dục Phật giáo cần chuyển tải tư tưởng “đem đạo vào đời”, bằng tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam. Thứ ba, giáo dục Phật giáo phải thể hiện những cốt tủy của giáo lý Phật giáo. Thứ tư, giáo dục phải luôn đổi mới về tư duy, phương pháp đáp ứng kịp sự thay đổi nhanh chóng, mạnh mẽ của xã hội hiện đại hiện nay.
***
Tài liệu tham khảo
Ambedkar, B.R; Te Buddha and his Dhamma. PES (Bombay), 1957.
Thích Minh Châu, Đại tạng kinh Việt Nam Nam truyền, Kinh Tương Ưng bộ, Phẩm Tự mình làm hòn đảo, tập 1, Nxb. Tôn giáo, 2013.
Thích Minh Châu, Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trường bộ, tập 1, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, ấn hành 1991.
Đoàn Trung Còn, Phật học từ điển, quyển 2, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1997.
Thích Huệ Đạo, Đạo đức Phật giáo với việc phát triển xã hội Việt Nam bền vững, in trong “Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2019: Phật giáo và Giáo dục đạo đức toàn cầu”, Nxb. Hồng Đức, 2019.
Dissanayake Mudiyanselage Kasun Dharmasiri, Vai trò của đạo đức Phật giáo trong giáo dục, in trong “Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2019: Phật giáo và Giáo dục đạo đức toàn cầu”, Nxb. Hồng Đức, 2019.
Thích Quảng Độ dịch, Phật Quang Đại Từ Điển 6, Nxb. Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc, 2000.
Edi Ramawijaya Putra, Nhìn lại những giá trị giáo dục Phật giáo và nâng cao nhận thức toàn cầu hiện nay như là những hiểu biết sâu sắc tự định hướng của các nhà sư phạm đối với thực tiễn sư phạm, in trong “Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2019: Phật giáo và Giáo dục đạo đức toàn cầu”, Nxb. Hồng Đức, 2019.
Học viện Chính trị quốc gia, Giáo trình đạo đức học, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Từ điển Bách khoa Việt Nam 1 (A-Đ), Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2000.