GIÁ TRỊ SỐNG CỦA TĂNG NI SINH
TS.TT. Thích Nguyên Hạnh
- ĐẶT VẤN ĐỀ
Suốt hơn 25 thế kỷ, đạo Phật đã đóng góp phần nào trong vai trò là một hệ thống tư tưởng sống vì hòa bình, an lạc, hòa hợp, giữ được sự thăng bằng cho tâm thức trong mọi hoàn cảnh. Tiếp nối dòng chảy ấy, Phật giáo Huế cũng chung sức mình trong việc mang tới hạnh phúc cho cuộc đời. Trong thời hiện đại, những vị lãnh đạo Phật giáo đã ý thức rất rõ nguồn năng lực đặc biệt của Tăng ni trẻ, vì vậy đã mở nhiều trường lớp với nhiều trình độ khác nhau để đào tạo Tăng tài. Được thành lập năm 1997, Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế đã liên tiếp tổ chức các khóa đào tạo cử nhân cho Tăng ni trẻ với đa dạng các môn học từ nội điển đến ngoại điển thuộc nhiều lĩnh vực. Chính những thế hệ trẻ này sẽ là nguồn lực lớn cho tương lai đạo pháp và dân tộc, nên có thể nói rằng định hình được đời sống cho họ là định hình được sinh mạng của cả một hệ thống tư tưởng. Điều này quan trọng vô cùng.
Những giá trị sống cần phải có sự định hướng. Sự định hướng này phụ thuộc vào việc lĩnh hội những chuẩn mực của xã hội, bên cạnh đó là sự tự nhận thức của bản thân. Thế hệ trẻ hôm nay đang đi tìm chỗ đứng cho chính mình trong sự tấn công của các nền văn hóa khác biệt, các cám dỗ tha hóa ngày càng hấp dẫn, sự kích thích bản năng ngày càng mạnh và tinh vi. Đồng thời, sự tự khẳng định mình là một mục tiêu mà rất đông bạn trẻ thời đại hướng đến. Và coi đó như là ưu thế của tuổi trẻ. Nhưng tự khẳng định theo hướng nào? Có người cố gắng học tập tốt, cố gắng làm việc hết mình, nỗ lực vươn lên bằng chính sức lực của bản thân. Nhưng cũng có người đi ăn chơi bừa bãi, hút thuốc, uống rượu, hành động bạo lực… để tự khẳng định mình. Đây thật sự là một mối nguy cho các bậc làm cha mẹ và những nhà xây dựng xã hội.
Tăng ni sinh là người có tiếng nói và vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn và định hướng đời sống tâm linh đạo đức cho thế hệ trẻ. Người dân xứ Huế đa số là Phật tử, cho nên việc giáo dục định hướng những giá trị tốt đẹp cho thanh thiếu niên có sự đóng góp rất quan trọng của Tăng ni. Với giáo lý tốt đẹp đầy lòng từ bi, mang tính đạo đức nhân văn cao cả, Phật giáo luôn có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục đời sống tốt đẹp cho hàng Phật tử. Với trách nhiệm đó, Tăng ni sinh phải luôn luôn trau dồi kiến thức, sống đời sống đạo đức nhân văn để tu học và hướng dẫn cho Phật tử đi đến con đường “Chân - thiện - mỹ”.
Từ những suy nghĩ đó, chúng tôi nhận thấy rằng việc định hướng giá trị sống cho Tăng ni sinh Phật tử là việc làm cần thiết trong xã hội hiện nay. Và dựa trên nền tảng của giáo lý đạo Phật với những giá trị sống vốn có của người con Phật chúng tôi muốn giá trị đó tác động đến một số tầng lớp thanh thiếu niên trong việc định hướng cho bản thân những giá trị sống tốt đẹp.
- VÀI ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA TĂNG NI SINH
Tăng ni sinh Học viện Phật giáo là người Việt Nam, đa số thuộc lứa tuổi thanh - thiếu niên, đã tốt nghiệp Trung học phổ thông trong hệ thống giáo dục Việt Nam, do vậy, tâm lý của Tăng ni sinh cũng có điểm tương đồng với tâm lý của thanh thiếu niên Việt Nam.
Nhận thức
Ở giai đoạn này, các quá trình nhận thức đều phát triển mạnh: độ tinh nhạy của các giác quan tăng lên rõ rệt, tri giác có mục đích đạt tới mức cao, quan sát trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện. Tư duy sâu sắc và có tính mở rộng, tỏ ra chặt chẽ, nhất quán và có căn cứ. Bên cạnh đó, lứa tuổi này có “tính nhạy bén cao”, khả năng lý giải và gán ý nghĩa cho những ấn tượng cảm tính ban đầu đã có và những tri thức khoa học đã tích lũy được trong quá trình học. Lứa tuổi này có năng lực giải quyết những nhiệm vụ trí tuệ ngày một khó khăn, lập luận mang tính logic hơn. Do sự phát triển trí tuệ cao, trong hoạt động nhận thức của mình, Tăng ni sinh có thể hoạt động trí tuệ tập trung, căng thẳng, tiến hành hoạt động tư duy với sự phối hợp của nhiều thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa để đi sâu tìm hiểu những môn học.
Hoạt động nhận thức của Tăng ni sinh gắn liền với học tập để hoàn thiện bản thân, đi đến “Chân - thiện - mỹ”. Họ luôn luôn ý thức bản thân mình là ai, ý thức con đường đang đi và trách nhiệm đang làm. Từ đó họ làm chủ những suy nghĩ và hành vi của mình một cách tốt đẹp. Họ sống vì lý tưởng nên những suy nghĩ và hành động của họ phải tương thích. Họ không những tu tập cho bản thân mà còn phải là người mô phạm để hướng dẫn những người con Phật tu tập. Nhận thức của Tăng ni sinh có thể sâu hơn so với lứa tuổi của họ. Tóm lại, có thể nói về mặt nhận thức Tăng ni sinh rất cao, ý thức được việc mình làm, có cái nhìn sâu sắc so với những người cùng lứa tuổi.
- Đời sống tình cảm của Tăng ni sinh
Tăng ni sinh là tuổi phát triển nhất về các loại tình cảm cấp cao: tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mĩ, tình cảm đạo đức… và được biểu hiện rất đa dạng và phong phú trong đời sống cũng như trong hoạt động.
Tình bạn cùng giới và khác giới ở độ tuổi này đặc biệt phát triển.
Tình bạn giúp cho Tăng ni sinh gắn kết với nhau trong học tập, vui chơi, giải trí và cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm trong học tập và đặc biệt là đời sống tu tập. Do vậy, tình bạn đã làm phong phú tâm hồn và nhân cách của Tăng ni sinh hoàn thiện. Tăng ni sinh luôn luôn có tinh thần giúp đỡ mọi người, có tình yêu bao la rộng lớn, sống vì mọi người. Họ biết giới hạn của tình cảm bạn bè khác giới, họ biết các giới luật cần phải thực hành. Với mục đích cao cả, phát triển đời sống tâm linh, xây dựng hoàn thiện nhân cách của con người nên tình cảm của Tăng ni sinh là tình cảm trong sáng mang tinh thần của sự từ bi, không có sự sở hữu hay chấp thủ mang tính bi ai của các thế hệ trẻ cùng lứa.
- Một số phẩm chất nhân cách tiêu biểu của Tăng ni sinh
Xu hướng học tập, tu dưỡng chuẩn bị cho tương lai là hoạt động rất cơ bản trong đời sống của Tăng ni sinh hướng cho Tăng ni sinh phát triển nổi bật, họ có lý tưởng rõ rệt, có ước mơ, kỳ vọng.
Nhu cầu, mong muốn là một hiện tượng tâm lý của con người, là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về một thứ gì đó. Tùy theo trình độ nhận thức, những đặc điểm tâm sinh lý mà con người có những mong muốn khác nhau.
Mong muốn, nhu cầu hoàn thiện bản thân là yếu tố thúc đẩy Tăng ni sinh không ngừng phấn đấu. Một khi Tăng ni sinh có nhu cầu cao thì nó sẽ chi phối đến đời sống tâm lý nói chung, đến hành vi của các Tăng ni sinh nói riêng. Chính vì vậy, một khi Tăng ni sinh có mong muốn, nhu cầu hoàn thiện bản thân thì nó sẽ thúc đẩy sự cố gắng học tập, rèn luyện bản thân nhằm đạt được mục đích của mình.
Nhu cầu của Tăng ni sinh phát triển mạnh trong giai đoạn này. Họ cũng có những nhu cầu về ăn mặc, ngủ nghỉ, các phương tiện đi lại… tuy nhiên với đời sống của người xuất gia thì những nhu cầu đó chỉ có chứ không đầy đủ, không màu mè. Ví dụ Tăng ni có nhu cầu về phương tiện đi lại như xe đạp hay xe máy, nhưng họ không cầu mong những chiếc xe sang trọng cầu kỳ của xã hội, đối với họ chiếc xe chỉ là phương tiện nên họ không đòi hỏi cao. Hoặc trang phục hằng ngày thì họ cũng chỉ mặc những trang phục phù hợp với đời sống của người xuất gia không chạy theo thời đại của thế hệ trẻ. Ngoài nhu cầu vật chất họ luôn luôn mong muốn hoàn thiện mình hơn, nên họ có nhu cầu cao về sự trau dồi nhân cách đạo đức, họ luôn giữ mình trong việc đi đứng, không ngừng học tập, lắng nghe để phát triển trên con đường tu tập.
Tự đánh giá là một trong những phẩm chất quan trọng biểu hiện trình độ phát triển cao của nhân cách. Tự đánh giá ở Tăng ni sinh là một dạng hoạt động nhận thức trong đó đối tượng nhận thức chính là bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu nhập, xử lý thông tin về chính mình. Tự đánh giá, tự ý thức có vai trò quan trọng đối với tự nhận thức, tự phê phán và điều chỉnh giá trị sống của Tăng ni sinh bởi vì nhờ đó mà Tăng ni sinh nhìn nhận ra được chính mình để có thái độ, hành vi, hoạt động phù hợp nhằm điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện, phát triển bản thân theo lý tưởng mà họ đã lựa chọn.
Tóm lại, một số đặc điểm tâm lý nổi bật của Tăng ni sinh là: có trình độ phát triển nhận thức cao, tư duy nhạy bén, linh hoạt, xu hướng nhân cách phát triển rõ rệt biểu hiện trong hoạt động học tập. Tự đánh giá và tự ý thức phát triển mạnh mẽ, từ đó giúp Tăng ni sinh tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực, đó là cơ sở tạo nên giá trị sống cũng như chi phối đến định hướng giá trị sống của Tăng ni sinh.
- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát ngẫu nhiên 200 Tăng ni sinh từ 22 - 30 tuổi đang học tập ở Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Huế.
Các phương pháp nghiên cứu chính như: Phương pháp điều tra, Phương pháp phỏng vấn, Phương pháp quan sát, Phương pháp xin ý kiến chuyên gia, Nhóm phương pháp thống kê toán học.
- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
- Nhận thức của Tăng ni sinh về sự cần thiết định hướng giá trị sống
Nhận thức là một trong những yếu tố rất quan trọng trong đời sống hàng ngày của con người. Nhận thức đúng thì sẽ giúp con người có những hành động đúng. Tuy nhiên, đôi khi nhận thức đúng nhưng vẫn có thể hành động sai lầm, còn nhận thức sai lầm thì khó mà đem lại kết quả đúng. Đối với việc định hướng giá trị sống, Tăng ni sinh nếu như không nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc dịnh hướng giá trị sống thì chắc chắn sẽ không có suy nghĩ và hành động đúng đắn. Để tìm hiểu định hướng giá trị sống của Tăng ni sinh trước hết tìm hiểu về nhận thức ở họ đối với mức độ quan trọng về việc định hướng giá trị sống cho Tăng ni sinh. Kết quả nghiên cứu được thể hiện ở bảng sau (bảng 4.1).
Bảng 4.1: Nhận thức của Tăng ni sinh về sự cần thiết phải định hướng giá trị sống
STT |
Mức độ |
Số lượng |
(Số lượng %) |
1 |
Rất cần thiết |
151 |
75,5 |
2 |
Cần thiết |
49 |
24,5 |
3 |
Thỉnh thoảng cần thiết |
0 |
0 |
4 |
Không cần thiết |
0 |
0 |
Tổng số |
|
200 |
100 |
Kết quả trên cho thấy, hầu hết Tăng ni sinh đều đánh giá việc định hướng giá trị sống cho Tăng ni sinh với mức độ từ cần thiết trở lên. Trong đó, mức độ rất cần thiết chiếm 75,5% (151 phiếu); mức độ cần thiết chiếm 24,0% (48 phiếu). Ở mức thỉnh thoảng cần thiết và không cần thiết về sự định hướng giá trị sống cho bản thân thì không chủ thể nào lựa chọn. Kết quả nhận thức này còn được thể hiện rõ ràng hơn trong những suy nghĩ về lý tưởng sống của bản thân, đa số Tăng ni sinh đều suy nghĩ rằng: “Sống là phải có ước mơ hoài bão và hãy biến những ước mơ hoài bão đó thành hiện thực”, “Thích đem niềm an lạc, hạnh phúc đối với mọi người, nghiên cứu giáo lý Phật giáo để áp dụng vào đời sống hiện tại”, “Hạnh phúc là biết cho đi và hy sinh cho người khác”, “Nỗ lực tu học để hoàn thiện nhân cách và đạo đức của bản thân, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh”… Qua đó cho chúng ta thấy rằng, đa số Tăng ni sinh đều nhận thức đúng mức độ cần thiết phải định hướng giá trị sống cho Tăng ni sinh và tất cả đều có những suy nghĩ đúng đắn, thể hiện các giá trị sống luôn luôn được họ quan tâm.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi có đưa ra các bài tập tình huống thể hiện nội dung của các giá trị (chính trị tư tưởng, ứng xử, học tập…), và qua kết quả phân tích cho thấy đa số Tăng ni sinh đều lựa chọn các giá trị phù hợp với đạo đức nhân cách, phù hợp với ứng xử chung của mọi người. Ví dụ họ quan tâm học tập khi được thầy cô ra bài, giúp đỡ khi gặp người khó khăn, hoặc là nhiệt tình tham gia các hoạt động từ thiện của chính quyền địa phương. Qua đó để khẳng định rằng đa số Tăng ni sinh đều có định hướng tốt và có các hành động tương thích với những sự lựa chọn đó.
Hầu hết Tăng ni sinh suy nghĩ hướng sống của bản thân dựa vào nền tảng giáo lý của đạo Phật để hoàn thiện nhân cách đạo đức, để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Điều này cho thấy giáo lý Phật giáo ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ về hướng sống của Tăng ni sinh. Đa số Tăng ni sinh đều trong quá trình tu tập và nghiên cứu giáo lý nên đa phần suy nghĩ hướng sống về nội dung giáo lý căn bản của đạo Phật (45,0%), dựa trên nền tảng căn bản về giáo lý để hoàn thiện nhân cách của một con người (37,5%) rồi từ đó mới góp phần xây dựng xã hội (11,0%). Điều này phù hợp với quá trình giáo dục của Phật giáo, bản thân của mỗi người phải sống tốt, tu sửa thói hư tật xấu, phát triển nhân cách hoàn thiện rồi mới được đi giảng dạy giáo lý và hướng dẫn Phật tử tu tập.
-
- Đánh giá về mức độ định hướng giá trị sống của Tăng ni sinh
Bảng 4.2. Mức độ định hướng giá trị sống của Tăng ni sinh
STT |
Mức độ định hướng giá trị sống |
Số lượng |
% |
1 |
Tôi xác định rõ những giá trị sống mà tôi muốn có.
Tôi biết rõ tôi muốn trở thành người như thế nào. |
130 |
65,0 |
2 |
Tôi có một hình dung chung về những giá trị sống, những yêu cầu ở một con người mà tôi muốn có trong tương lai nhưng những hình dung này có lúc chưa rõ ràng. |
59 |
29,5 |
3 |
Tôi chưa tưởng tượng được trong tương lai tôi sẽ là người như thế nào. Tôi chưa xác định được những giá trị sống mà tôi muốn có. |
11 |
5,5 |
Tổng số |
|
200 |
100 |
Kết quả khảo sát cho thấy, phần lớn Tăng ni sinh đều xác định rõ những giá trị sống cho bản thân với nhiều mức độ khác nhau. Cụ thể ở mức độ “Tôi xác định rõ những giá trị sống mà tôi muốn có” với 130 ý kiến chiếm 65,0%. Ở mức độ “Tôi có một hình dung chung về những giá trị sống, những yêu cầu ở một con người mà tôi muốn có trong tương lai nhưng những hình dung này có lúc chưa rõ ràng” có 59 ý kiến chiếm 29,5% và cuối cùng ở mức “Tôi chưa tưởng tượng được trong tương lai tôi sẽ sống như thế nào. Tôi chưa xác định được những giá trị sống mà tôi muốn có” với 11 ý kiến chiếm 5,5%. Kết quả này cho thấy, cần tăng cường hơn nữa việc giáo dục và giúp họ có sự định hướng giá trị sống để làm phương hướng cho học tập, rèn luyện và tu tập.
-
- Định hướng giá trị sống của Tăng ni sinh nhìn chung
Qua kết quả cho thấy, đa số Tăng ni sinh đều có sự định hướng giá trị sống tương đối tốt với Điểm trung bình chung là 3,97/5. Tuy nhiên nhìn vào các mặt của định hướng giá trị sống thì các giá trị liên quan đến quan hệ ứng xử được Tăng ni sinh lựa chọn nhiều và cho kết quả cao với điểm trung bình nhóm là 4,5 và tiếp theo là nội dung học tập với điểm trung bình nhóm là 4,05, tiếp đến là các giá trị liên quan đến sinh hoạt với điểm trung bình nhóm là 3,67 và cuối cùng nội dung tư tưởng chính trị ít được sự lựa chọn nhất trong bốn nội dung với điểm trung bình chung là 3,64. Qua đó để cho chúng ta có cái nhìn chung tổng quan về các giá trị sống mà Tăng ni sinh lựa chọn. Họ quan tâm rất nhiều đến phần quan hệ ứng xử, họ đánh giá cao các giá trị này, điều này cũng phù hợp với đời sống của người xuất gia khi chú trọng đến phần ứng xử giữa các mối quan hệ, với giáo lý nhà Phật chú trọng xây dựng tình thương, lòng từ bi của con người. Và tiếp theo là vấn đề học tập, đa số Tăng ni sinh đều mong muốn học tập thật tốt để có tri thức, hiểu biết và giúp đỡ mọi người, góp phần xây dựng đời sống xã hội tốt đẹp hơn, và để học tập tốt thì họ luôn luôn đặt ra các mục tiêu và hoàn thành tốt mục tiêu đã đề ra. Với các giá trị liên quan đến sinh hoạt họ cũng có sự lựa chọn nhất định với các giá trị thiết thực cuộc sống thì họ luôn đề cao, mong muốn hoàn thiện bản thân, xây dựng môi trường sống an lạc, tình cảm anh em tốt đẹp hơn, coi trọng gia đình, bản thân. Đa số Tăng ni sinh không chú trọng nhiều đến tư tưởng chính trị, họ ít quan tâm đến các vấn đề trong xã hội.
Bảng 4.3: Định hướng giá trị sống của Tăng ni sinh nhìn chung
Các mặt đinh hướng giá trị sống |
Các giá trị sống |
ĐTB |
S.D |
Tư tưởng chính trị |
1. Mong muốn hiểu biết vấn đề quốc tế để có sự đóng góp xây dựng thế giới tốt đẹp |
3,53 |
0,94 |
|
2. Tôi luôn tâm niệm sống phải theo pháp luật của nhà nước và thực hiện tốt chính sách, pháp luật |
3,84 |
0,77 |
|
3. Tôi nghĩ rằng mình cần phải rèn luyện, trau dồi về đạo đức, lối sống |
4,47 |
0,61 |
4. Tôi nghĩ rằng mình phải có trách nhiệm đấu tranh với thói hư tật xấu trong xã hội |
3,84 |
0,85 |
|
5. Tôi luôn xácđịnh sống phải hoàn thành tốt ng- hĩa vụcủa người công dân |
4,24 |
0,63 |
|
6. Tôi có dự định trong tương lai phải nghĩ mọi cách để làm giàu |
1,93 |
0,80 |
|
Điểm chung của nhóm |
3,64 |
|
Quan hệ ứng xử |
7. Tôi xác định sống phải trung thực, thẳng thắn, công bằng với mọi người |
4,58 |
0,56 |
8. Tôi luôn tâm niệm sống cần phải luôn giúp đỡ mọi người |
4,46 |
0,51 |
9. Tôi nghĩ rằng sống cần coi trọng tình cảm và cố gắng sống tốt với mọi người trong chùa |
4,56 |
0,58 |
10. Tôi nghĩ sống phải luôn thân thiện, vui vẻ với mọi người |
4,48 |
0,55 |
11. Tôi xác định trong quan hệ ứng xử mình cần phải tôn trọng và thương yêu người khác |
4,56 |
0,58 |
|
12. Tôi luôn xác định mình cần phải biết tha thứ cho mọi người |
4,44 |
0,65 |
|
Điểm chung của nhóm |
4,51 |
|
Học tập |
13. Tôi nghĩ rằng mình cần phải học tập để có tri thức, hiểu biết |
4,10 |
0,62 |
14. Tôi xác định luôn phấn đấu học tập để góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp hơn |
4,08 |
0,72 |
15. Tôi nghĩ rằng để hoàn thành tốt công việc học tập phải có kế hoạch và mục tiêu |
3,96 |
0,78 |
16. Tôi xác định để học tập tốt cần học hỏi thầy và trao đổi với bạn bè |
4,04 |
0,76 |
Điểm chung của nhóm |
4,05 |
|
Lý
tưởng sống |
17. Tôi nghĩ rằng trong cuộc sống sức khỏe là quan trọng nhất |
4,53 |
0,52 |
18. Tôi đã xác định mình nên sống thoải mái theo sở thích |
2,89 |
0,93 |
19. Tôi luôn tâm niệm tiền là quan trọng nhất. Vì có tiền là có tất cả |
2,15 |
0,84 |
20. Tôi nghĩ rằng mình sống phải có vị trí trong xã hội |
2,34 |
0,98 |
21. Tôi luôn suy nghĩ gia đình là quan trọng nhất |
3,50 |
0,82 |
22. Tôi xác định, hạnh phúc là biết cho đi và hy sinh vì người khác |
4,40 |
0,68 |
23. Tôi nghĩ rằng sống cần phải có trách nhiệm đối với bản thân |
4,27 |
0,74 |
24. Tôi nghĩ rằng sống cần quan tâm, có trách nhiệm đến gia đình |
3,79 |
0,78 |
25. Sau này sống riêng, tôi xác định sẽ có trách nhiệm cao trong dạy bảo học trò và xây dựng chùa |
4,56 |
0,59 |
26. Tôi luôn nghĩ rằng mình phải sống có lý tưởng, hoài bão |
4,35 |
0,68 |
|
Điểm chung của nhóm |
3,67 |
|
Và để hiểu rõ hơn chúng ta sẽ phân tích từng giá trị mà Tăng ni sinh lựa chọn. Nhìn vào kết quả khảo sát (bảng 4.3) cho thấy, sáu giá trị sống mà đa số Tăng ni sinh lựa chọn nhiều nhất là “cần phải trung thực, thẳng thắn, công bằng” điểm trung bình là 4,58, “Cần phải tôn trọng và thương yêu người khác” điểm trung bình là 4,56, “Tôi nghĩ rằng sống cần coi trọng tình cảm và cố gắng sống tốt với mọi người trong chùa” điểm trung bình là 4,56, “Sau này sống riêng, tôi xác định sẽ có trách nhiệm cao trong dạy bảo học trò và xây dựng chùa” điểm trung bình là 4,56, “sống phải biết giúp đỡ mọi người” điểm trung bình là 4,48 và cuối cùng “cần phải rèn luyện trau dồi về đạo đức, lối sống” điểm trung bình là 4,47. Qua đó, cho chúng ta thấy rằng đa số Tăng ni sinh đều có định hướng tốt về giá trị như có tấm lòng tôn trọng và thương yêu người khác, luôn đề cao tình cảm anh em và sống tốt với mọi người trong chùa và điều đó phù hợp với giáo lý, tư tưởng giáo dục của đạo Phật. Đa số Tăng ni sinh đều định hướng giá trị sống hướng về ngôi chùa nơi mà mọi người cùng chung sống tu tập và xem đó là nơi quan trọng nhất, luôn giúp đỡ quan tâm thương yêu mọi người và quan tâm đến mọi người trong gia đình và mọi người ý thức được rằng cần phải rèn luyện trau dồi đạo đức, lối sống, xem trọng các giá trị đạo đức sống như cần phải trung thực, thẳng thắn, sống phải biết hy sinh cho người khác. Đó là sáu giá trị sống mà Tăng ni sinh có sự định hướng nhiều nhất và nó cũng phù hợp với đạo đức của người con Phật, hạnh phúc là biết cho đi và hy sinh cho người khác, mình vì mọi người, điều đó phù hợp với đạo đức lối sống của xã hội.
Kết quả khảo sát cho thấy, có bốn giá trị mà Tăng ni sinh định hướng ít nhất trong 26 giá trị sống của bản thân, giá trị ít lựa chọn nhất đó là “trong cuộc sống phải nghĩ mọi cách để làm giàu” với điểm trung bình là 1,93, “Tôi luôn tâm niệm tiền là quan trọng nhất. Vì có tiền là có tất cả” với điểm trung bình là 2,15, “mình phải có vị trí trong xã hội” với điểm trung bình là 2,34 và “nên sống thoải mái theo sở thích” với điểm trung bình là 2,89. Qua đó, cho chúng ta thấy rằng đa số Tăng ni sinh có tư tưởng không coi trọng các giá trị vật chất như đồng tiền, không tham cầu địa vị trong xã hội, ít quan tâm kinh tế và đặc biệt là đa số mọi người đều cho rằng không nên sống thoải mái theo sở thích của mình. Đó là điều đáng trân trọng phù hợp với giáo lý đạo Phật, sống cuộc sống giản dị không ham cầu địa vị vinh quang ngoài xã hội, và đây là sự khác biệt giữa Tăng ni sinh và các bạn cùng lứa tuổi ngoài xã hội.
-
- Định hướng giá trị sống của Tăng ni sinh theo năm xuất gia tu học
Bảng 4.4: Định hướng giá trị sống của Tăng ni sinh theo năm xuất gia tu học
STT |
Định hướng giá trị sống |
Năm xuất gia |
1995-2000 |
2001-2005 |
2006-2010 |
ĐTB |
ĐTB |
ĐTB |
1 |
Tư tưởng chính trị |
3,72 |
3,60 |
3,65 |
2 |
Quan hệ ứng xử |
4,67 |
4,48 |
4,43 |
3 |
Học tập |
4,15 |
4,03 |
4,11 |
4 |
Lý tưởng sống |
3,59 |
3,67 |
3,79 |
|
Tổng |
4,03 |
3,94 |
3,99 |
Qua kết quả bảng 4.4 cho thấy Tăng ni sinh xuất gia từ năm 1995 - 2000 có điểm trung bình chung cao nhất so với năm 2001 - 2005 và 2006 - 2010 với điểm trung bình chung lần lượt là 4,03, 3,94 và 3,99. Nhìn chung các giá trị lựa chọn không có nhiều thay đổi khi mà đa số điểm trung bình chung của quan hệ ứng xử cao nhất, tiếp đến là học tập và sinh hoạt. Tuy nhiên, với lứa tuổi xuất gia từ năm 1995 - 2000 lại có điểm trung bình chung tư tưởng chính trị cao hơn so với điểm trung bình chung của sinh hoạt, xếp thứ ba trong bốn nội dung giá trị định hướng. Quan hệ ứng xử với điểm trung bình chung là 4,67, tiếp theo là học tập 4,15, tiếp đến là tư tưởng chính trị điểm trung bình chung là 3,72 và cuối cùng là sinh hoạt với điểm trung bình chung là 3,59. Điều này cho thấy Tăng ni sinh xuất gia tu học lâu thì họ quan tâm nhiều đến đời sống chính trị hơn, với độ tuổi lớn hơn, có thời gian tu học lâu hơn, với nhiều công việc Phật sự hoằng pháp vào cuộc sống nên những Tăng ni sinh này quan tâm nhiều đến đời sống xã hội, tư tưởng chính trị để giáo dục mọi người tốt hơn. Và để có cái nhìn rõ ràng hơn chúng ta sẽ phân tích các giá trị mà họ lựa chọn.
Kết quả điều tra cho chúng ta thấy đa số Tăng ni sinh đều xem trọng các giá trị giống như phần phân tích ở phần định hướng giá trị sống của Tăng ni sinh nhìn chung. Tuy nhiên tùy theo năm xuất gia tu học có những sự lựa chọn khác nhau. Đối với những người xuất gia tu học lâu năm thì họ có sự nhận thức sâu sắc với sự lựa chọn cao hơn so với những Tăng ni sinh xuất gia sau. Ví dụ Tăng ni sinh xuất gia năm 1995 - 2000 lựa chọn giá trị “Tôi luôn xác định mình cần phải biết tha thứ cho mọi người” với điểm trung bình là 4,59, trong khi đó Tăng ni sinh xuất gia từ năm 2000 - 2005 với điểm trung bình là 4,42, còn đối với Tăng ni sinh xuất gia từ năm 2005 - 2010 với điểm trung bình là 4,41. Hoặc với giá trị “Tôi nghĩ rằng sống cần coi trọng tình cảm và cố gắng sống tốt với mọi người trong chùa” với điểm trung bình là 4,62 của Tăng ni sinh xuất gia năm 1995 - 2000 và điểm trung bình là 4,55 của Tăng ni sinh xuất gia năm 2000 - 2005 và Tăng ni sinh xuất gia năm 2005 - 2010 với điểm trung bình là 4,53. Đối với các giá trị như tiền bạc địa vị họ cũng ít quan tâm hơn so với những người mới xuất gia. Ví dụ: “Tôi luôn tâm niệm tiền là quan trọng nhất. Vì có tiền là có tất cả” đối với Tăng ni sinh xuất gia năm 1995 - 2000 với điểm trung bình 2,07, và Tăng ni sinh năm 2000 - 2005 điểm trung bình là 2,14 và điểm trung bình là 2,28 với Tăng ni sinh xuất gia từ năm 2005 - 2010. Qua đó để cho chúng ta thấy rằng Tăng ni sinh xuất gia lâu năm thì có sự lựa chọn cao hơn so với Tăng ni sinh xuất gia sau này.
-
- Định hướng giá trị sống của Tăng ni sinh dưới góc độ giới tính
Ở góc độ giới tính kết quả nghiên cứu cho thấy, nam giới có sự định hướng giá trị sống tốt hơn nữ giới. Cụ thể ở ba mặt tư tưởng chính trị, quan hệ ứng xử và học tập thì nam giới có điểm trung bình cao hơn so với nữ. Qua bảng kết quả chúng ta thấy điểm trung bình chung của nam giới là 4,02 còn điểm trung bình chung nữ giới là 3,94. Về mặt tư tưởng chính trị nam giới điểm trung bình chung là 3,72, nữ giới là 3,60, quan hệ ứng xử nữ giới là 4,46 trong khi đó nam giới là 4,62, ở mặt học tập nam giới điểm trung bình chung là 4,12 còn nữ giới là 4,02. Tuy nhiên các giá trị liên quan đến lý tưởng sống thì nữ giới lại có điểm trung bình chung cao hơn 3,70 so với 3,63 của nam giới. Và để hiểu rõ hơn chúng ta sẽ đi sâu phân tích từng giá trị giữa nam giới và nữ giới.
Việc lựa chọn các giá trị sống giữa nam và nữ có những đặc điểm khác nhau, điều đó được thể hiện qua số liệu điều tra ở bảng 4.6.
Đối với nam thì các giá trị họ định hướng tốt nhất và được ưu tiên lựa chọn đó là “Tôi nghĩ rằng sống cần coi trọng tình cảm và cố gắng sống tốt với mọi người trong chùa” với điểm trung bình là 4,78; tiếp đến giá trị “Sau này sống riêng, tôi xác định sẽ có trách nhiệm cao trong dạy bảo học trò và xây dựng chùa” với điểm trung bình là 4,76, và cuối cùng của nhóm được định hướng tốt đó là “Cần phải trung thực, thẳng thắn, công bằng” với điểm trung bình là 4,73. Bên cạnh các giá trị được định hướng tốt thì còn các giá trị ít được lựa chọn đó là “Mình phải có vị trí trong xã hội” với điểm trung bình là 1,99, tiếp đến là giá trị ít được định hướng đó là “Trong cuộc sống phải nghĩ mọi cách để làm giàu” với điểm trung bình là 1,91 và thấp nhất là “Tiền là quan trọng nhất. Vì có tiền là có tất cả” với điểm trung bình là 1,82.
Bảng 4.5: Định hướng giá trị sống của Tăng ni sinh nhìn từ góc độ giới tính
STT |
Định hướng giá trị sống |
Giới tính |
Nam |
Nữ |
ĐTB |
ĐTB |
1 |
Tư tưởng chính trị |
3,72 |
3,60 |
2 |
Quan hệ ứng xử |
4,62 |
4,46 |
3 |
Học tập |
4,12 |
4,02 |
4 |
Lý tưởng sống |
3,63 |
3,70 |
|
Tổng |
4,02 |
3,94 |
- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- kết luận
- Về nhận thức: Đa số Tăng ni sinh có sự nhận thức rất tốt về định hướng giá trị sống cho bản thân và kết quả điều tra cho thấy những suy nghĩ về lý tưởng sống của bản thân của Tăng ni sinh rất tốt, đa số đều có suy nghĩ chung như: “Nỗ lực tu học để hoàn thiện nhân cách và đạo đức của bản thân, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh”, “luôn luôn hướng tâm về việc tốt”, “luôn cân nhắc và suy nghĩ về hành động lời nói của bản thân với mọi người xung quanh”, “ý thức mình là một người tu sĩ, sống và làm những việc lợi mình, lợi người”, “luôn lắng nghe và chia sẻ”, “Sống là phải biết giúp đỡ gia đình, thương yêu mọi người”…
- Về sự quan tâm các vấn đề trong cuộc sống: Đa số Tăng ni sinh quan tâm nhiều đến vấn đề đó là “quan tâm đến đời sống tu tập của bản thân”, tiếp đến là “quan tâm đến vấn đề học vấn” và cuối cùng là “quan tâm đến bạn bè”. Đó là các vấn đề mà Tăng ni sinh quan tâm nhiều nhất. Và vấn đề tiền bạc, chính trị xã hội cũng như địa vị trong xã hội rất ít Tăng ni sinh xem trọng. Đây cũng là vấn đề dễ hiểu vì họ dành nhiều thời gian cho việc tu học, không đặt nặng vấn đề kinh tế địa vị, họ luôn luôn mong muốn chia sẻ và giúp đỡ mọi người vượt qua mọi khổ đau trong cuộc sống. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay xã hội có nhiều thay đổi, điều này đòi hỏi Tăng ni sinh phải quan tâm nhiều hơn các vấn đề xã hội, quốc tế để có thể dễ dàng thích ứng trong việc truyền dạy giáo lý cũng như hướng dẫn giúp đỡ mọi người.
- Về định hướng giá trị sống: Đa số Tăng ni sinh đều có định hướng tốt về giá trị như có tấm lòng tôn trọng và thương yêu người khác, luôn đề cao tình cảm và sống tốt với mọi người trong chùa và điều đó phù hợp với giáo lý, tư tưởng giáo dục của đạo Phật. Đa số Tăng ni sinh đều định hướng giá trị sống hướng về ngôi chùa nơi mà mọi người cùng chung sống tu tập và xem đó là nơi quan trọng nhất, luôn giúp đỡ quan tâm thương yêu mọi người và quan tâm đến mọi người trong gia đình và mọi người ý thức được rằng cần phải rèn luyện trau dồi đạo đức, lối sống, xem trọng các giá trị đạo đức sống như cần phải trung thực, thẳng thắn, sống phải biết hy sinh cho người khác. Đó là sáu giá trị sống mà Tăng ni sinh có sự định hướng nhiều nhất và nó cũng phù hợp với đạo đức của người con Phật hạnh phúc là biết cho đi và hy sinh cho người khác, mình vì mọi người điều đó phù hợp với đạo đức lối sống của xã hội. Tăng ni sinh không xem trọng việc làm kinh tế, không tìm mọi cách để có nhiều tiền, không tham cầu địa vị xã hội và họ luôn sống theo khuôn khổ của nhà chùa và xem việc sống theo sở thích của cá nhân là điều không nên.
Định hướng giá trị sống của Tăng ni sinh theo năm tu hành thì không có gì khác biệt nhiều giữa các năm tu học. Tuy nhiên những người xuất gia tu học từ những năm 1995 - 2000 thì có suy nghĩ định hướng tốt hơn so với các Tăng ni sinh xuất gia sau này, ngoài việc coi trọng các giá trị liên quan đến quan hệ ứng xử đạo đức của con người, thì họ cũng rất coi trọng các giá trị liên quan đến chính trị xã hội và các vấn đề quốc tế.
Định hướng giá trị sống giữa nam và nữ cũng có những đặc điểm khác nhau. Đối với nam thì họ luôn đề cao tình anh em và sống tốt với mọi người trong chùa, sẽ có trách nhiệm cao trong dạy bảo học trò và xây dựng chùa và luôn nghĩ rằng mình cần phải trung thực, thẳng thắn, công bằng. Đối với nữ thì họ xác định mình cần phải tôn trọng và thương yêu người khác, xem sức khỏe là quan trọng nhất, bên cạnh đó họ xác định mình cần phải trung thực, thẳng thắn, công bằng. Và cũng như nam giới họ ít quan tâm các giá trị như vị trí trong xã hội, tiền bạc.
Tóm lại, Tăng ni sinh coi trọng các giá trị sống liên quan đến quan hệ ứng xử, tiếp theo là học tập, sinh hoạt và tư tưởng chính trị là giá trị họ lựa chọn thấp nhất. Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải có sự điều chỉnh và định hướng thêm các giá trị thuộc tư tưởng chính trị cho Tăng ni sinh để phù hợp với thời đại xã hội ngày nay.
-
- Kiến nghị
Để giúp Tăng ni sinh định hướng được các giá trị sống một cách hài hòa và đúng đắn, phù hợp với đời sống tu tập, xu thế thời đại nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện sống cụ thể ngày nay, chúng tôi xin đưa ra một số biện pháp sau:
-
-
- Đối với xã hội
Các nhà quản lý, những người có chức trách ở trong xã hội cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa trong việc tổ chức các hoạt động của các tổ chức, đơn vị trong Giáo hội Phật giáo. Các tổ chức, đoàn thể trong xã hội nên có sự phối hợp mật thiết hơn nữa với tổ chức Giáo hội Phật giáo, tạo điều kiện thuận lợi để có thể tổ chức các hoạt động xã hội hữu ích.
Mỗi thành viên trong xã hội phải luôn có ý thức xây dựng và bảo vệ tổ quốc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống, các phong tục, tập quán và tín ngưỡng có giá trị của dân tộc. Đồng thời phải kiên quyết đấu tranh chống lại các tệ nạn xã hội, lên án các hoạt động tiêu cực trong xã hội.
-
-
- Đối với Học viện Phật giáo Việt Nam, người đảm nhiệm công tác giảng dạy giáo lý và hướng dẫn tu học
Chương trình giáo dục Tăng ni sinh cần định hướng mục đích: tạo môi trường, điều kiện cho Tăng ni sinh tu dưỡng đạo đức, nâng cao nhận thức về bản chất và giá trị đời sống, rèn luyện bản thân để có khả năng xây dựng đời sống an lạc, thông qua lý tưởng của một người con Phật.
Điều trước tiên, Tăng ni sinh cần là một môi trường sống vui tươi và lành mạnh. Xây dựng môi trường cho Tăng ni sinh là điều quan trọng bậc nhất. Ngoài xã hội có quá nhiều sân chơi cho thanh - thiếu niên, vì đây là đối tượng có số lượng đông đảo, dễ dãi và nhiều thị hiếu. Những sân chơi thiếu lành mạnh dễ hấp dẫn thanh - thiếu niên và làm suy thoái nhân cách của một bộ phận thanh - thiếu niên. Môi trường ở trong chùa thì luôn lành mạnh cộng với bạn hữu hiền lành, với người thầy mẫu mực, sẽ là môi trường sinh hoạt tốt cho Tăng ni sinh.
Tăng ni sinh cần được trang bị ba lãnh vực: Tri thức, kỹ năng và thái độ ứng xử, trong đó nhấn mạnh huấn luyện những kỹ năng sống như kỹ năng kiểm soát bản thân, kiểm soát tâm lý, kỹ năng ứng xử hài hòa, kỹ năng tập luyện sức khỏe. Đây là những kỹ năng mà đạo Phật có nhiều ưu thế. Ví dụ như giáo dục kỹ năng Thiền định, một trong những kỹ năng được coi là giải pháp nâng cao chất lượng sống cho con người thời đại, vốn đối mặt quá nhiều căng thẳng và áp lực trong công việc, học tập và trong cảm xúc. Tập luyện khí công, yoga… cũng là điều làm cho Tăng ni sinh thích thú và hiệu quả rất cao cho sức khỏe.
Cần xây dựng một chương trình sinh hoạt linh động để hấp dẫn Tăng ni sinh, cân bằng các lãnh vực: Đạo lý, thực tập, giao lưu, giải trí, âm nhạc… Nói chung, một chương trình hấp dẫn đòi hỏi phải phù hợp với tâm sinh lý Tăng ni sinh, phù hợp với những ước mơ cao đẹp của tuổi trẻ; những phương thức rèn luyện cần phải thực hiện để khi một Tăng ni sinh đến với một ngôi chùa sẽ có cảm hứng, nhận được những lợi ích mà không nơi nào có được.
Thường xuyên nâng cao nhận thức cho Tăng ni sinh về các giá trị sống. Để làm được điều này thì trong khi giảng dạy giáo lý cần phải có sự kết hợp với thực tiễn cuộc sống, kết hợp với các giáo lý khác liên hệ đến các chuẩn mực đạo đức, lối sống trong xã hội. Tổ chức cho Tăng ni sinh tham dự các buổi pháp đàm, pháp thoại, các buổi thuyết giảng; mở các lớp, các khóa tu học; giới thiệu kinh, sách, các băng thuyết giảng để Tăng ni sinh học hỏi và tìm hiểu thêm.
Tổ chức các hoạt động học tập phong phú, đa dạng, lành mạnh và hữu ích cho Tăng ni sinh tham gia. Chẳng hạn như tổ chức cho Tăng ni sinh đi tham quan các chùa, các di tích lịch sử, văn hóa, các trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi, trung tâm chăm sóc trẻ khuyết tật và đặc biệt là các trung tâm cải tạo, giáo dưỡng trẻ phạm pháp. Qua các chuyến tham quan ấy giúp Tăng ni sinh hiểu thêm về lịch sử, văn hóa, biết thêm về công hạnh tu hành của các vị tổ sư, củng cố niềm tin cho họ. Giúp cho Tăng ni sinh nhận thức được tầm quan trọng của các giá trị sống. Cũng có thể tổ chức cho Tăng ni sinh tham gia các hoạt động từ thiện như là thăm và cứu trợ đồng bào bị thiên tai, chăm sóc người bệnh, thăm các gia đình có công lao, thành tích với đạo, với xã hội, tham gia các hoạt động xóa mù chữ cho trẻ em vùng sâu, vùng xa… hay là tổ chức hoạt động bảo vệ môi trường như trồng cây xanh, làm vệ sinh nơi công cộng… Thông qua các hoạt động này làm cho Tăng ni sinh có thêm vốn sống, tăng thêm lòng thương yêu và sự cảm thông đối với mọi người, giúp cho Tăng ni sinh mở rộng quan hệ giao tiếp, hiểu nhau nhiều hơn và gắn bó với nhau hơn, đồng thời củng cố những hành vi ứng xử tốt, phát huy những giá trị tốt đẹp trong mỗi Tăng ni sinh.
Tổ chức các hoạt động lao động và học tập một cách nghiêm túc, khoa học cho Tăng ni sinh. Kết hợp lao động, học tập với nghỉ ngơi hợp lý, lành mạnh, tránh gây trình trạng căng thẳng hoặc nhàm chán cho Tăng ni sinh.
Giáo dục Tăng ni sinh bằng hình thức nêu gương. Những người lớn, thế hệ đi trước phải làm gương cho Tăng ni sinh noi theo. Giáo dục bằng hình thức nêu gương là một hình thức giáo dục đem lại chất lượng và hiệu quả cao. Bởi vì thông qua người thực, việc thực trong đời sống hàng ngày sẽ làm cho các đạo lý, các chuẩn mực đạo đức trở nên sống động hơn và có sức cảm hóa mạnh mẽ hơn. Chính thực tiễn sống động ấy đã gieo vào trong tâm thức con người, tạo nên một sức mạnh vô hình đánh thức lương tâm của họ, thúc giục họ tự cải thiện đời sống của bản thân theo hướng các giá trị sống cao thượng. Những tấm gương sáng về lối sống đạo đức trong hiện thực không chỉ tác động lên mặt nhận thức mà còn tác động lên cả mặt tình cảm và hành động của cá nhân, làm cho cá nhân phải tự nhìn lại chính mình và chuyển đổi dần dần những ý nghĩ, lời nói và hành động của bản thân từ xấu trở nên tốt, từ tiêu cực đến tích cực, từ bi quan thành lạc quan.
Trong quá trình truyền thụ giáo lý cho Tăng ni sinh, cần phải tổ chức công tác kiểm tra, đánh giá một cách nghiêm túc và thường xuyên hơn. Không những truyền thụ giáo lý cho Tăng ni sinh mà còn phải hướng dẫn cho Tăng ni sinh phương pháp tự học, tự nghiên cứu và cách thức vận dụng giáo lý vào trong đời sống hằng ngày, đó mới là vấn đề quan trọng.
-
-
- Đối với Giáo hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế
Có các chương trình rõ ràng về việc giáo dục định hướng giá trị sống cho Tăng ni sinh. Xây dựng hệ thống giáo dục thống nhất, vừa áp dụng giáo lý đạo Phật và kết hợp những hoạt động thực tiễn của xã hội để giúp Tăng ni sinh có cái nhìn thực tiễn hơn. Nâng cao nhận thức về các giá trị sống cho Tăng ni sinh, bằng các buổi pháp thoại, tọa đàm, sinh hoạt tập thể trao đổi các vấn đề liên quan đến các Tăng ni sinh hiện nay. Liên hệ mật thiết với các chùa nơi Tăng ni sinh đang tu học để có sự giám sát quản lý, kịp thời điều chỉnh các hành vi không đúng không phù hợp của Tăng ni.
-
-
- Đối với nhà chùa
Cần định hướng cho Tăng ni sinh con đường đi đúng đắn trên phương diện kết hợp giữa đạo và đời. Lý tưởng kết hợp với thực tiễn của xã hội. Cần có con đường giáo dục căn bản từ khi mới vào xuất gia, từ đó hình thành nên các giá trị căn bản thiết thực. Tổ chức nhiều hoạt động từ thiện hoặc thăm quan để giúp Tăng ni sinh có cái nhìn thiết thực vào đời sống.
Trên nền tảng giáo lý căn bản của Phật giáo cần phải kết hợp các nội dung liên quan đến các mặt xã hội, quốc tế giúp cho Tăng ni sinh có cái nhìn thiết thực, để từ đó có thể hoằng pháp tốt hơn, nắm bắt những thay đổi của xã hội để giúp đỡ hướng dẫn mọi người.
-
-
- Đối với bản thân Tăng ni sinh
Bản thân các Tăng ni sinh phải hình thành cho mình một niềm tin chân chính đối với đạo Phật. Muốn có được niềm tin chân chính thì không còn con đường nào khác ngoài việc tích cực, tự giác học tập, nghiên cứu giáo lý của đạo Phật. Phải luôn luôn có tinh thần cầu tiến, ham học hỏi, học không ngừng, học ở mọi nơi mọi lúc và học với tất cả mọi người. Đồng thời phải không ngừng tự rèn luyện các phẩm chất đạo đức, những thói quen, lối sống tốt cho bản thân. Cố gắng vận dụng những giáo lý đã học vào trong đời sống hằng ngày. Cần phải có nhận thức rõ ràng về giá trị sống, cần phải xem đó là nền tảng để xây dựng cuộc sống. Với tinh thần nhập thế của mình, Phật giáo có vai trò quan trọng trong việc xây dựng đạo đức cho thế hệ thanh niên. Và để làm được điều đó đòi hỏi mỗi bản thân Tăng ni sinh là tấm gương.
***
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Văn Bắc (2013), Giáo trình Tâm lý học đại cương, Nxb. Đại học Huế.
Trương Chi (2014), Giá trị cuộc đời, Nxb. Hồng Đức.
Vũ Dũng (2000), Từ điển Tâm lý học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Dương Tự Đam (1996), Định hướng giá trị của thanh niên-sinh viên trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Luận án PTS Khoa học Triết học, Hà Nội.
Đỗ Ngọc Hà (1993), Một số biểu hiện định hướng giá trị của thanh niên sinh viên hiện nay, Luận văn cao học sư phạm tâm lý, Hà Nội.
Phạm Minh Hạc (2012), “Giá trị học cơ sở lý luận góp phần đúc kết, xây dựng giá trị chung của người Việt Nam hiện nay”, Nxb. Dân Trí.
Thích Nhất Hạnh (2010), “Tuổi trẻ tình yêu lý tưởng”, Nxb. Phương Đông.
Hòa thượng Thích Thiện Hoa (2002), Phật học phổ thông (quyển I.II.III.), Nxb. Tôn giáo.
Lê Văn Hồng - Lê Ngọc Lan - Nguyễn Văn Thông (1996), Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm, Nxb. Đại học sư phạm.
Lê Hương (2003), “Định hướng giá trị con người”, Tâm lý học, (7).