HÒA THƯỢNG THÍCH TỪ PHONG
VÀGIÁODỤCPHẬT HỌCVIỆTNAMTHỜIHIỆNĐẠI
NCS.SC. Thích Nữ Niệm Huệ*
|
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
Với chủ đề Hội thảo về Phật học Việt Nam thời hiện đại, không chỉ thảo luận những vấn đề liên quan đến nền Phật học Việt Nam trong vài thập niên gần đây, điển hình như mốc thời gian 35 năm thành lập Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, mà còn liên hệ đến quá trình hình thành và phát triển nền giáo dục Phật học Việt Nam kể từ thời chấn hưng Phật giáo giai đoạn đầu thế kỷ XX cho đến nay.
Nếu như trong thời hiện tại, khi đề cập đến những thành tựu đáng kể của Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, có lẽ trong giới Phật học Việt Nam không ai không biết đến công lao vô cùng to lớn của Cố Đại lão Hòa thượng Viện trưởng sáng lập đạo hiệu Thích Minh Châu, và Trưởng lão Hòa thượng Viện trưởng đương nhiệm đạo hiệu Th Trí Quảng. Cũng vậy, trong thời kỳ chấn hưng Phật giáo, chúng ta không thể không nhớ đến một trong những bậc Cao tăng đã tận tâm tận lực cống hiến cho nền giáo dục Phật học Việt Nam đó chính là Hòa thượng Thích Từ Phong.

![]()
*. Nghiên cứu sinh, Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Hòa thượng Thích Từ Phong (1864-1939) là một trong những nhân vật tiên phong và có công rất lớn trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX. Hòa thượng được suy cử làm Hội trưởng đầu tiên của Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học thành lập vào năm 19311. Với tấm lòng thiết tha vì đạo, Hòa thượng đã chung sức cùng chư vị Tôn túc để chấn hưng Phật giáo. Đặc biệt, Hòa thượng rất chú trọng các công tác Phật sự liên quan đến lĩnh vực hoằng pháp giáo dục. Trong bài tham luận này, người viết sẽ trình bày những đóng góp của Hòa thượng Th Từ Phong đối với nền giáo dục Phật học Việt Nam nổi bật qua ba phương diện: kiến lập học đường, giảng dạy Phật pháp, biên soạn và phiên dịch kinh sách.
- KIẾN LẬP HỌC ĐƯỜNG
Khi nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam thời kỳ chấn hưng đầu thế kỷ XX, chúng ta sẽ thấy trong giai đoạn này, vấn đề chính yếu cần phải giải quyết qua lời phát biểu của Hòa thượng Khánh Hòa tại “Cuộc nhóm Đại hội của Đại hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học” đó là ‘Phật pháp suy vi do giáo đồ thất học’2. Đây là thực trạng đau lòng của Phật giáo khiến cho chư vị Tôn túc thời bấy giờ đã nghĩ ngay đến việc làm vô cùng cấp thiết là cần phải chấn hưng Phật học. Theo Hòa thượng Từ Phong, muốn chấn hưng Phật học không gì hơn là: “Xây dựng học đường, giảng dạy tam tạng, hoằng truyền Thánh đạo, thuyết pháp lợi sanh, luật phong vĩnh chấn, Tổ ấn trùng quang”3. Quan điểm này còn được trình bày hết sức rõ ràng qua bài “Kệ minh Phật học biên văn bố cáo” của Hòa thượng Từ Phong như sau:
Ngày nay cao tăng chúng đức, đoàn thể liên lạc nên rồi, hiện xuất tinh thần hiệp lực, kiến lập học đường, từ học đường này, thời kết quả đặng. Tiên thánh có nói: “Thử chi nhất học, tối diệu tối huyền”. Một việc học này, làm đầu trước ba giới Thánh Hiền. Chư sơn tình đồng chí hợp, tôn sùng giáo pháp, trang

-
- Thích Thiện Hoa (1970), 50 năm (1920-1970) chấn hưng Phật giáo Việt Nam, tr. 36.
- Xem thêm: Tạp chí Từ Bi Âm, kỳ thứ 5 (ngày 01/03/1932), tr. 30-36.
- Thích Từ Phong (1939), 《發菩提心文演義》 (Phát Bồ-đề tâm văn diễn nghĩa) (Hán - Nôm), tr. 57a (người viết dịch).
nghiêm ngôi Tam Bảo lại, đạo Phật truyền bá phổ thông rồi, trai lành gái tín thấy vậy, đều phát tâm chánh tín, vui đẹp trong nền đạo đức, tôn giáo nhà Phật tiến phát, càng thêm tỏ rạng4.
Trong đó, việc làm được nhấn mạnh trước tiên đó là “kiến lập học đường”. Ở đây, từ “kiến lập” không chỉ có nghĩa là xây dựng, tạo dựng nên một cơ sở vật chất mà còn mang ý nghĩa trang trọng hơn đó là thành lập một hiệp hội, một cơ quan tổ chức hoạt động mang tính “học đường” nhằm mục đích hoằng truyền Phật pháp. Liên quan đến vấn đề này, trong Tạp chí Từ Bi Âm kỳ thứ 5 đã đề cập: Hòa thượng Từ Phong có tỏ rằng 28 năm nay Ngài cũng muốn lập một hội để lo xương minh Phật học, nên thường khi Ngài thừa dịp chứng minh trường Hương hay là trường Kỳ với dự đám trai đàn cúng kiến trong các chùa thì Ngài có diễn thuyết, khuyên bạn đồng đạo hiệp cùng Ngài mà lập hội ấy5.
Thông qua đoạn văn trên, Hòa thượng Từ Phong khuyên các bậc cao tăng chúng đức hãy cùng nhau hiệp lực kiến lập học đường, phát triển học nghiệp cho hàng Tăng Ni trẻ. Đối với Phật giáo, học là phương thức hữu hiệu nhất để hình thành đội ngũ Tăng sĩ trí thức có khả năng truyền bá Phật pháp, giúp cho Tam bảo được trường tồn trên thế gian này. Cũng nhờ đó mà hàng thiện nam tín nữ biết phát tâm chánh tín, nền đạo đức nhân loại được củng cố, Phật giáo càng ngày càng phát triển, ngọn đèn chánh pháp càng thêm tỏ rạng.
Đáp ứng lời kêu gọi khẩn thiết của Hòa thượng Từ Phong cũng như chư Tôn túc lãnh đạo Tăng-già thời bấy giờ, nhằm mục đích đào tạo Tăng tài và phổ biến giáo lý đến mọi người, các hội đều mở trường dạy học với danh xưng “Thích học đường”, “Phật học đường” v.v... Ngoài Hòa thượng Từ Phong còn có các Hòa thượng khác như: Khánh Hòa, Khánh Anh, Chí Thành, Huệ Quang v. v… cũng đứng ra tổ chức các đạo tràng, các lớp học dành cho Tăng Ni tại các chùa do các ngài chủ trì giảng dạy. Riêng đối với Hòa thượng

-
- Thích Từ Phong (1939), 《發菩提心文演義》 , tr. 54a (người viết dịch).
- Tạp chí Từ Bi Âm, kỳ thứ 5 (ngày 01/03/1932), Sài Gòn, tr. 26.
Từ Phong, Ngài không chỉ trụ trì hai ngôi già lam chính là chùa Giác Hải (Chợ Lớn) và chùa Thiền Lâm (Gò Kén, Tây Ninh), mà tín đồ còn cúng dường cho Ngài nhiều cảnh chùa như: chùa Bửu Long, chùa An Thạnh, chùa Giác Quang (Vĩnh Long), chùa Linh Phong (Mỹ Tho), chùa Phú Thới (Gò Công) v.v... Tổng số tự viện các nơi cúng cho Ngài khoảng 20 ngôi.
Qua đó cho thấy, Hòa thượng Từ Phong là một bậc cao Tăng thạc đức và rất có uy tín nên mới được Phật tử tin tưởng, tôn kính, cúng dường nhiều chùa như thế. Có thể nói rằng Ngài nhận nhiều chùa không phải vì danh vọng địa vị mà chỉ vì muốn thực hiện tâm nguyện kiến lập đạo tràng giảng kinh thuyết pháp. Xem qua hành trạng của Hòa thượng Từ Phong, chúng ta sẽ thấy rõ trong suốt cuộc đời hành đạo của mình, với tấm lòng hy sinh vì đạo pháp, Ngài không quản ngại gian lao vất vả, không chỉ mở lớp tại bổn tự của mình mà còn đảm nhiệm trọng trách đi đến các đạo tràng khác để giảng dạy Phật pháp. Tất cả việc làm của Ngài không ngoài mục đích chấn hưng Phật học, giúp cho Tăng Ni và Phật tử am hiểu Phật pháp để tu tập đạt được lợi ích an lạc cho tự thân, đồng thời góp phần giáo dục nhân cách đạo đức cho mọi người trong xã hội.
- GIẢNG DẠY PHẬT PHÁP
Với tinh thần nhiệt huyết của mình và trên cương vị là Hội trưởng đầu tiên của Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học, Hòa thượng Thích Từ Phong đã hết lòng hy sinh vì đạo pháp, tận tâm tận lực cống hiến cho phong trào chấn hưng Phật giáo trong giai đoạn đầu thế kỷ XX. Một trong những công tác Phật sự nổi bật của Ngài là giảng dạy Phật pháp, như trong Việt Nam Phật giáo sử luận đề cập:
Vào khoảng năm 1920, tuy tình trạng Phật giáo ở đất Việt không có gì sáng sủa, nhưng rải rác trong xứ vẫn còn những vị cao Tăng duy trì mệnh mạch của Phật pháp. Ở trong Nam có Thiền sư Từ Phong duy trì đạo tràng Giác Hải ở Chợ Lớn, mở lớp giảng giải Phật pháp cho Tăng sĩ trong vùng6.

-
- Xem thêm: Nguyễn Lang (1996), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, tr. 17.
Bên cạnh đó, Tiểu sử danh Tăng Việt Nam còn cho biết: Hòa thượng Từ Phong “vốn là người uyên bác lại tinh tấn nghiên cứu học hỏi nên Ngài sớm trở thành một Pháp sư tinh thông kinh điển, có tài hùng biện luôn thuyết phục người nghe. Vì vậy ai cũng thích đến nghe pháp với Ngài”7. Chính vì thế, thời bấy giờ các tự viện ở Nam bộ thường liên kết thành một hội gọi là Hội Lục Hòa, dựa vào hình thức mỗi lần một chùa luân phiên qua lại tổ chức hội họp nhằm tạo tình đoàn kết để phát động phong trào chấn hưng Phật giáo, Hòa thượng Từ Phong thường được thỉnh thuyết giảng trong các lần hội họp đó. Ngoài ra, Ngài còn được các chùa thỉnh làm Pháp sư trong các dịp khai trường Hương như: Chùa Long Quang (Vĩnh Long), năm Kỷ Dậu (1909); Tổ đình Giác Lâm (Sài Gòn), năm Nhâm Tý (1912); Chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho), năm Kỷ Mùi (1919); Chùa Bửu Long (Vĩnh Long), năm Canh Thân (1920). Những dịp này là cơ hội để Ngài có thể hoằng dương chánh pháp, chấn hưng Phật học một cách hiệu quả nhất theo đúng quan điểm và tâm nguyện của mình như đã trình bày trong Phát Bồ-đề tâm văn diễn nghĩa:
Giả sử các ngài để vị Phật trên đầu mà đội, thân này làm giàn cho Phật ngồi, đi đủ ba ngàn đại thiên thế giới, nếu như không dạy truyền chánhpháp, khuyến giáo tế độ hết người đời ra khỏi xe luân hồi đường sanh tử, rốt sau rồi có cái chi đền trả ânđức cho Phật, dù làm bảo tháp mười tầng thờ Phật, không có lợi ích chi cho Phật8.
Đại ý đoạn văn trên muốn nói dù cho chúng ta thể hiện lòng tôn kính đức Phật bằng bất cứ hình thức tu tạo phước điền nào đi chăng nữa mà không nỗ lực hoằng truyền Phật pháp, không cứu độ chúng sanh thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử thì cũng không lợi ích gì cho đức Phật cả. Hay nói một cách đơn giản, dễ hiểu hơn như ca dao Việt Nam có câu: “Dù xây chín bậc phù đồ, chẳng bằng làm phúc cứu cho một người”, đó chính là thể hiện tinh thần nhập thế độ sanh của Phật giáo. Để thực hiện tinh thần nhập thế thích ứng với thời đại, Hòa thượng Từ Phong khuyên rằng:

-
- Thích Đồng Bổn chủ biên (1996), Tiểu sử danh Tăng Việt Nam, tập 1, tr. 116-117.
- Thích Từ Phong (1939), 《發菩提心文演義》, tr. 56a (người viết dịch).
“Bây giờ đây tôn giáo Phật, chúng ta là một người chánh sứ của đức Như Lai, gắng làm cho tròn trách nhiệm đó, phải mau tu chỉnh Phật pháp lại, ứng hiện theo thời đại, mới thích đẹp nhân tình. Làm mỗi việc chi ra, có chỗ lợi nước phúc dân, dìu dắt hậu lai lên đường quang minh. … Bây giờ đây đã đến thời kỳ xương minh Phật học, còn để đợi chờ ngày nào nữa”9.
Thông qua đoạn văn trên, Hòa thượng Từ Phong nhắc nhở hàng Tăng Ni là những “người chánh sứ của đức Như Lai” rằng đã đến thời kỳ xương minh Phật học, không nên đợi chờ gì nữa. Ở đây, có một điểm đáng lưu ý là phải “tu chỉnh Phật pháp lại, ứng hiện theo thời đại, mới thích đẹp nhân tình”. Thực tế cho thấy, thời đại chúng ta đang sống là thời đại của khoa học kỹ thuật, với nền giáo dục tiến bộ, hoàn toàn khác so với xã hội xưa kia. Phật giáo muốn tồn tại và phát triển ở xã hội ngày nay, trước hết cần phải giáo dục và đào tạo đội ngũ tri thức có kiến thức chuyên môn về Phật học để hoằng dương chánh pháp.
Hơn thế nữa, tuy Phật giáo lấy sự giác ngộ và giải thoát làm mục đích, nhưng sự tồn tại của Phật giáo không thể tách khỏi đời sống xã hội, nhất là Phật giáo Đại thừa đề cao vai trò Bồ-tát hạnh, lấy tinh thần độ sanh làm sự nghiệp. Do đó, nhà giáo dục Phật giáo cần phải có kiến thức chuyên môn phục vụ con người và xã hội. Hay nói cách khác, người hoằng pháp phải là người vừa có trình độ chuyên môn về kiến thức Phật học vừa có kiến thức xã hội. Kiến thức Phật học giúp cho người hoằng pháp không làm lệch đi tinh thần giáo dục của đạo Phật; kiến thức xã hội là kiến thức giúp cho người truyền giáo hình thành những phương thức truyền giáo thích nghi và đáp ứng nhu cầu cho con người và xã hội. Hàng sứ giả Như Lai cần hội đủ hai tiêu chí về Phật học lẫn thế học như thế mới kiện toàn tinh thần ‘khế lý khế cơ’ của đạo Phật. Như vậy, có thể nói giáo dục Phật giáo là phương pháp giáo dục con người hoàn mỹ nhất. Giáo dục Phật giáo không phải là một hệ thống giáo dục khép kín, mà được

-
- Thích Từ Phong (1939), 《發菩提心文演義》, tr. 55a (người viết dịch).
mở rộng cho mọi đối tượng và mọi thời đại. Những ai muốn đến với giáo dục Phật giáo, phải đến bằng tinh thần nhập thế, nói theo ngài Từ Phong là “làm mỗi việc chi ra, có chỗ lợi nước phúc dân, dìu dắt hậu lai lên đường quang minh”.
Nói tóm lại, chương trình giảng dạy Phật pháp của Hòa thượng Từ Phong nói riêng và của chư vị Tôn túc lãnh đạo Tăng đoàn thời bấy giờ nói chung đã giúp cho phong trào chấn hưng Phật giáo đạt được những thành tựu khả quan trong công tác giáo dục, đào tạo Tăng tài, truyền bá tư tưởng Phật giáo đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Có thể nói tinh thần chấn hưng Phật học giai đoạn đầu thế kỷ XX đã mở ra một hướng đi mới, tạo tiền đề cho nền giáo dục Phật học Việt Nam dần dần phát triển mãi cho đến ngày nay.
- BIÊN SOẠN VÀ PHIÊN DỊCH KINH SÁCH
Khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, chúng ta thấy vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, triều Nguyễn độc tôn Nho học, Phật giáo “bị kỳ thị và suy đồi tột độ”. Tuy các chùa trong nước rất nhiều, nhưng hoạt động riêng rẽ, không có một tổ chức, hệ thống liên lạc chặt chẽ với nhau, sự giao lưu phát triển về Phật học cũng suy giảm. Đặc biệt dưới thời Pháp thuộc, Việt Nam bị chia làm ba miền, trong khi chính quyền bảo hộ tìm mọi cách phát triển Công giáo thì Phật giáo Việt Nam càng bị chèn ép. Một số ngôi chùa lớn cũng bị phá hủy, Viện Viễn Đông Bác cổ sưu tập các tài liệu, di vật nhưng không nhằm mục đích truyền bá Phật giáo cũng góp phần làm suy giảm các kinh sách tại các chùa.
Trước tình hình xã hội có nhiều biến chuyển như thế, công cuộc đổi mới cần được xúc tiến để củng cố nền văn hóa cũ bằng ngôn ngữ thuần Việt và hòa nhập cùng nền văn hóa mới. Các nhà trí thức cổ động phong trào nâng cao dân trí và công việc đầu tiên là phổ cập chữ quốc ngữ. Trong đó, chữ Nôm là một sáng tạo độc lập của ông cha ta, góp phần nâng cao địa vị tiếng Việt, có tác dụng trong sinh hoạt văn hóa cũng như trong việc phát triển nền văn hóa dân tộc.
Riêng đối với Phật giáo, chữ Nôm đã được chư vị Tôn túc, các nhà nghiên cứu Phật học sử dụng để phiên dịch tam tạng kinh điển, biên soạn kinh sách Phật giáo để phổ biến rộng rãi, giúp cho nhiều người đọc hiểu dễ dàng hơn. Trên tinh thần đó, Hòa thượng Thích Từ Phong đã sử dụng chữ Nôm kết hợp với chữ Hán để biên soạn hoặc phiên dịch, diễn nghĩa kinh sách Phật giáo, cụ thể như trong Việt Nam Phật giáo sử luận có đề cập: “Từ năm 1922, Thiền sư (Từ Phong) đã cho xuất bản bộ “Quy nguyên trực chỉ” do ông tự tay phiên dịch ra quốc ngữ”10.
Ngoài ra, Hòa thượng Thích Từ Phong còn để lại cho hậu thế một số tác phẩm khác như:
- Khải cáo phát minh văn
- Tông cảnh yếu ngữ lục diễn nghĩa
- Phát Bồ-đề tâm văn diễn nghĩa …
Nhìn chung, nội dung tư tưởng của các tác phẩm ấy không ngoài mục đích chấn hưng Phật học, xây dựng và phát triển Phật giáo Việt Nam, củng cố nếp sống tu học, hoàn thiện nhân cách đạo đức cho hàng Tăng Ni, Phật tử nói riêng và cho mọi người trong xã hội nói chung. Những tác phẩm này không chỉ góp phần làm phong phú thêm cho kho tàng văn học và văn hóa Phật giáo Việt Nam mà còn có giá trị ảnh hưởng rất lớn đối với phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ. Có thể nói so với chư vị Tôn túc cùng thời trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, Hòa thượng Thích Từ Phong là một trong số rất ít các bậc Cao tăng đã đóng góp nhiều cho nền Phật học Việt Nam về phương diện giảng dạy, biên soạn và phiên dịch kinh sách Phật giáo.
VÀI Ý KIẾN ĐÓNG GÓP THAY LỜI KẾT
Qua phần trình bày trên cho thấy, sự cống hiến tận tâm tận lực của Hòa thượng Thích Từ Phong về lĩnh vực hoằng pháp giáo dục không chỉ đóng góp tích cực cho phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam xưa kia mà còn có giá trị ảnh hưởng rất lớn đối với nền

![]()
10. Nguyễn Lang (1996), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr. 17.
giáo dục Phật học Việt Nam thời hiện tại. Thiết nghĩ, ngành giáo dục Phật giáo Việt Nam hiện nay cũng nên kế thừa và phát huy có sáng tạo dựa trên nền tảng ba phương diện giáo dục của Hòa thượng Thích Từ Phong:
- Kiến lập học đường: Tính cho đến thời điểm hiện tại, nền giáo dục Phật học Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể với hệ thống trường lớp Phật học khá quy mô bao gồm: Sơ cấp Phật học, Trung cấp Phật học, Cao đẳng Phật học, Cao cấp Phật học (Cử nhân, Thạc sĩ và Tiến sĩ), các lớp đào tạo Giảng sư Cao – Trung và kể cả các lớp giảng dạy giáo lý cho Phật tử. Tuy vậy, trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển, với điều kiện kinh tế tương đối phát triển so với thời kỳ trước, nhằm mục đích phục vụ tốt nhu cầu giảng dạy và học tập, cơ sở vật chất lớp học cần được trang bị đầy đủ các phương tiện dạy học hiện đại như: máy tính, máy chiếu, hệ thống âm ly-micro… (điển hình như Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng một thập niên trở lại đây đã hoàn thiện khá tốt về phương diện này).
- Giảng dạy Phật pháp: Với vai trò là người “thay Phật tuyên dương chánh pháp”, trước hết đội ngũ giảng viên chính của các trường lớp Phật học, cụ thể là chư tôn đức Tăng Ni giáo thọ cần phải am hiểu tinh thông Phật pháp, kế đến cũng nên trau dồi thêm kiến thức ngoại điển, cập nhật tri thức thời đại mới có liên quan đến lĩnh vực chuyên môn để làm sáng tỏ vấn đề cần giảng dạy. Bên cạnh đó, Giáo thọ sư cần rèn luyện các kỹ năng về nghiệp vụ sư phạm, chọn phương pháp và nội dung giảng dạy phù hợp với trình độ người học, giúp cho việc truyền trao và tiếp nhận Phật pháp đạt hiệu quả cao. Nói đúng hơn là cần chú trọng đến chất lượng đào tạo.
3. Biên soạn và phiên dịch kinh sách: Hiện nay, ngành giáo dục Phật giáo Việt Nam được mở rộng trong phạm vi cả nước thông qua các trường lớp đào tạo Tăng Ni và gồm cả các lớp giảng dạy giáo lý cho Phật tử. Tuy hình thức đào tạo và đối tượng giáo dục khác nhau nhưng nội dung giáo dục của tất cả các chương trình Phật học nói chung đều dựa trên lời Phật dạy được lưu giữ trong Tam tạng
kinh điển. Như vậy, Đại tạng Kinh được dịch sang tiếng Việt chính là nguồn tài liệu căn bản cho ngành Giáo dục Phật giáo Việt Nam. Thế nhưng, suy cho cùng thì Phật giáo Việt Nam hiện nay vẫn chưa có được một bộ Đại tạng Kinh tiếng Việt hoàn chỉnh thật sự. Do đó, hoàn thành Đại tạng Kinh Việt Nam (gồm cả phần Tạp tạng của Việt Nam) là công việc vô cùng cấp thiết cần được quan tâm đặc biệt. Hơn thế nữa, để có được nguồn tài liệu phong phú đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập của Tăng Ni và Phật tử Việt Nam, một số kinh sách Phật giáo do các nhà nghiên cứu, các học giả nổi tiếng trên thế giới viết bằng tiếng Anh, Hoa, Nhật… và các tác phẩm Hán Nôm của chư Tổ Việt Nam tiền bối cũng nên được phiên dịch sang tiếng Việt. Ngoài ra, việc biên soạn giáo trình, trước tác sách nghiên cứu cũng cần được ban ngành giáo dục Phật giáo và giới nghiên cứu Phật học Việt Nam lưu tâm nhiều hơn.
Tóm lại, có thể nói đó là ba phương diện chính yếu không thể thiếu đối với nền giáo dục Phật học Việt Nam thời hiện đại. Thiết nghĩ muốn hoàn thiện tốt cả ba phương diện ấy, chư vị Tôn túc lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chư Tôn đức ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương và các tỉnh thành, Hội đồng điều hành các Học viện Phật giáo, Ban Giám hiệu các trường Phật học trên khắp ba miền đất nước cần quan tâm sâu sát hơn để giúp cho ngành giáo dục Phật giáo Việt Nam càng ngày càng phát triển.
***
Tài liệu tham khảo
Thích Đồng Bổn chủ biên (1996), Tiểu sử danh Tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành.
Thích Thiện Hoa (1970), 50 năm (1920-1970) chấn hưng Phật giáo Việt Nam, Sài Gòn.
Nguyễn Lang (1996), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Nxb. Văn học, Hà Nội.
Thích Từ Phong (1939), 《發菩提心文演義》 (Phát Bồ-đề tâm văn diễn nghĩa) (Hán - Nôm).
Tạp chí Từ Bi Âm, kỳ thứ 5 (ngày 01/03/1932), Sài Gòn.
