GIỚI ĐỊNH TUỆ - CON ĐƯỜNG GIÁO DỤCTOÀN DIỆN
TS.ĐĐ. Thích Trung Định
- DẪN NHẬP
Nói đến giáo dục là nói đến việc dạy và học, việc truyền dạy kinh nghiệm, kỹ năng, kiến thức của người dạy cho người học. Giáo dục còn có nghĩa là nuôi dưỡng, làm cho nó tăng trưởng, phát triển đến toàn diện về đức dục, trí dục và thể dục.
Có rất nhiều định nghĩa về giáo dục, song tất cả không ngoài việc đào tạo con người có đầy đủ về kiến thức, học vấn, rèn luyện thân tâm. Ta có thể hiểu khái quát về giáo dục là sự dạy dỗ, truyền dạy và đào luyện cho người nhận sự giáo dục được mở mang trí huệ và đức hạnh, tự khám phá và được hiểu mình, nhờ đó có những hành động phù hợp với môi trường, với cuộc sống với cộng đồng và xã hội.
- GIÁO DỤC PHẬT GIÁO
Chúng ta có thể nói rằng, giáo dục Phật giáo được bắt đầu mở ra sau khi đức Thế Tôn thành đạo và thuyết bài pháp đầu tiên cho năm anh em Tôn giả Kiều Trần Như tại Lộc Uyển, Sarnath: “Này các vị, hãy lắng nghe, Pháp bất tử đã được phát hiện; ta sẽ chỉ dẫn và giảng dạy Pháp ấy.”
Trong suốt 45 năm du phương hành hóa, sứ mệnh của Đức Phật là tuyên giảng con đường giải thoát. Con đường ấy đã vạch ra một
đời sống tu học và thiền định, nhằm mục đích rèn luyện và chế ngự tâm. Tất nhiên, rằng một hệ thống tôn giáo như Phật giáo, đã xem vô minh là nguồn cội gây nên mọi sự khổ đau và thừa nhận một tâm không tu tập là chướng ngại căn bản cho sự giải thoát, thì Phật giáo ắt đã đặt trọng tâm cao nhằm vào quá trình tu tập tâm và thiết lập chương trình giáo dục thích hợp nhất cho mục tiêu giải thoát. Trong thời Đức Phật, hệ thống giáo dục Phật giáo đã bắt đầu hình thành và tuần tự phát triển. Bốn yếu tố liên quan đến quá trình giáo dục của Đức Phật, tạo thành những nền tảng căn bản cho nền giáo dục Phật giáo là: 1. Đức Phật là bậc Đạo Sư mẫu mực; 2. Tăng đoàn là hội chúng có học thức; 3. Những cơ sở tu viện là cơ sở nền tảng cho nền giáo dục học Phật giáo; 4. Chủ nghĩa giải thoát có trí tuệ của Phật giáo là động cơ phát triển giáo dục.
Phật giáo luôn đặt trọng tâm cho đối tượng giáo dục đó là con người. Việc thừa nhận khả năng vô tận của con người, cụ thể hơn là xác định khả tính thành Phật trong mỗi chúng sinh là tiền đề vô cùng quan trọng trong đường hướng giáo dục Phật giáo. Theo đó, giáo dục Phật giáo là đào tạo, hướng dẫn con người từ phàm phu đi đến thánh quả, giác ngộ. Hay nói khác hơn giáo dục Phật giáo là hướng con người đi ra khỏi sự kiềm tỏa của vô minh tham ái, vượt thoát khổ đau sinh tử luân hồi, đạt đến Niết bàn giải thoát.
Với con người, Giáo dục Phật giáo luôn đi theo con đường trung đạo, thừa nhận rằng ước vọng tâm linh cao cả phải dựa trên một thân thể khỏe mạnh và xã hội an toàn. Nhưng với Phật giáo, khía cạnh giáo dục thật sự phải được hợp nhất; với những đòi hỏi khác được đề ra để mang khả tính của con người tới sự trưởng dưỡng trong phương cách mà Đức Phật đã khai thị. Trên hết, chính sách giáo dục được hướng dẫn bởi các nguyên lý Phật giáo, là phải nhằm mục đích truyền đạt những giá trị phổ quát. Nó phải dẫn tới, không chỉ việc phát triển năng khiếu xã hội và thương mại, mà còn bồi bổ cho học sinh những hạt giống cao thượng của tâm linh.1

![]()
-
- Sđd, tr. 2.
Do đó, toàn bộ hệ thống giáo dục Phật giáo phải bắt nguồn từ đức tin (saddha) - niềm tin vào Tam bảo, và trên tất cả vào Đức Phật như là một đấng hoàn toàn giác ngộ, giáo viên vô song và hướng dẫn tối cao để sống đúng và hiểu đúng.2 Có năm phẩm chất mà Đức Phật thường được nâng lên như là điểm nổi bật của mô hình đệ tử, tu sĩ hay cư sĩ. Những phẩm chất này là đức tin, đức hạnh, lòng quảng đại, học tập, và trí tuệ. Trong năm phẩm chất ấy, đức tin và lòng quảng đại, chủ yếu liên quan đến tâm ý: họ đang quan tâm thuần hóa những tình cảm của bản chất con người. Hai liên quan đến trí tuệ: học tập, và sự khôn ngoan. Thứ hai, đạo đức hay luân lý dự phần cả hai mặt của nhân cách. Giáo dục Phật giáo như thế là nhằm mục đích chuyển hóa cá tính và kiến thức của con người, giữ quân bình cả hai và đảm bảo cả hai cùng được đưa tới sự hoàn thiện.
Đặc biệt quan trọng trong giáo dục Phật giáo nhằm tạo ra một mẫu người lý tưởng “sống muốn ít, hiểu nhiều, biết tàm quý, khiêm hạ và luôn nỗ lực để vượt qua cái tôi cá nhân hẹp hòi vị kỷ để trở thành con người giàu lòng từ bi, vô ngã vị tha, luôn dấn thân để phụng sự xã hội theo tinh thần của Tứ nhiếp pháp” (Bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự).
Trên cơ sở này, giáo dục Phật giáo là giáo dục mở và luôn thúc đẩy sự sáng tạo cá nhân cũng như tập thể nhằm tạo ra những giá trị tối ưu và cần thiết cho cuộc sống con người. Ở đó không có cái tôi chủ nghĩa giáo điều, mà là sự phát triển hài hòa, cái này nương vào cái kia để hoàn thiện. Điều đó dạy cho chúng ta biết sự hợp tác là tốt hơn cạnh tranh, vị tha tốt hơn tham vọng, và điều thiện của chúng ta được thành đạt qua sự hòa hợp và việc thiện hơn là qua sự lợi dụng và khống chế người khác.
Và con đường giáo dục Phật giáo nằm gọn trong ‘đạo đế’, tức con đường Bát chánh đạo mà tựu trung là giới định tuệ. Vị hành giả muốn đạt được mục đích, nghĩa là muốn đạt được quả vị thù thắng,

![]()
-
- Dr. Ch. Venkata Siva Sai, Buddhist education Theory and practice, Prashant Publishing House, Delhi, 2014, p. 3.
muốn an lạc và hạnh phúc thật sự ngay giữa cuộc đời này thì phải nỗ lực tu tập, thực hành ngay bằng chính con đường ấy.
Do đó, mục tiêu đầu tiên của giáo dục Phật giáo là nghiên cứu kinh điển, nó là một thấu kính để hiểu ý nghĩa của lời Phật dạy, như là một phần của tiến trình tu tập. Và mục tiêu thứ hai của giáo dục Phật giáo là để chuyển đổi bản thân. Quan điểm Phật giáo về giáo dục không chỉ là việc dạy và học trên văn tự mà cần phải chuyển hóa nội tâm, cải thiện cái xấu thành cái tốt, bồi dưỡng và phát huy nhân tài. Giáo dục nhằm trang bị cho con người kiến thức về thế học và đạo học, hai nền học vấn ấy song hành, giúp chúng ta biết được nguyên nhân của khổ đau và phương pháp diệt trừ khổ đau, đạt được sự an lạc trong cuộc sống
Và mục tiêu cuối cùng của giáo dục Phật giáo đó là trí tuệ, mà đức Phật đã dùng như là phương tiện trực tiếp đưa tới sự giải thoát cứu cánh, như là chìa khóa mở cánh cửa Niết Bàn bất diệt, và cũng như là hướng dẫn chính xác đưa tới sự thành tựu việc thích ứng với những thách thức của đời sống thế tục. Trí tuệ như thế là tối thượng của toàn bộ hệ thống giáo dục Phật giáo, và tất cả những bước căn bản trong hệ thống giáo dục Phật giáo nên ăn khớp với đức tính tối thượng này. Đó là với bước căn bản này thì giáo dục đạt được sự hoàn thiện, và rằng nó trở nên rực rỡ trong ý nghĩa thật và sâu xa nhất, như được dạy bởi Đức Phật trong đêm Ngài Thành Đạo, “Trong ta khởi lên tri kiến, hiểu biết, trí tuệ, liễu ngộ, và ánh sáng.”3
- GIÁO DỤC GIỚI, ĐỊNH, TUỆ
Tất cả lời dạy của Đức Phật đều mang mục đích của việc thoát khỏi đau khổ phát sinh do vô minh và tham ái của con người. Do đó, giáo dục Phật giáo nhằm vào việc loại trừ vô minh và tham ái ấy. Vì lý do này, giáo dục Phật giáo tìm cách để đánh thức con người nhận chân được ý nghĩa và mục đích chân chính của cuộc sống: sự hiểu biết thực tế của khổ đau và chấm dứt khổ đau. Con người cần

![]()
-
- Bhikkhu Bodhi, Aims of Buddhist Education, The Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka, 1998, p. 2.
nhận thức rằng mọi sự vật trong đời sống là sự kết hợp của các yếu tố nhân duyên hòa hợp, khi hội đủ nhân duyên thì pháp thành, và khi hết duyên thì chúng tan rã, hoại diệt, đau khổ. Thành ra, cần thâm hiểu sâu và rõ ràng rằng vô minh và tham ái là nguyên nhân của đau khổ, vì vậy sự đoạn trừ vô minh và tham ái sẽ dẫn đến sự chấm dứt của đau khổ. Để diệt trừ vô minh và tham ái chấm dứt khổ đau không có con đường nào khác hơn là thực hành theo con đường Bát chánh đạo được cấu thành trong tam vô lậu học giới, định và tuệ.
Lời dạy của Đức Phật là chân lý, sự thật chỉ rõ con đường chơn chánh để con người thực hành đúng đắn mang lại hạnh phúc an lạc trong đời sống. Do đó, giáo dục Phật giáo mang ý nghĩa tự lực nhiều hơn, tức đòi hỏi sự nỗ lực cá nhân trong việc đoạn trừ phiền não, kiết sử, lậu hoặc, và phát huy năng lượng từ bi và trí tuệ trong con người. Quá trình này không thể làm trong thời gian ngắn mà phải thực hiện suốt đời bởi vì nó nhằm mục đích đạt sự hoàn thiện trọn vẹn. Phật giáo xem sự hoàn thiện của con người là kết quả của sự nỗ lực tinh tấn liên tục. Theo đó, kiến thức sâu sắc (chân lý sự thật) không đến trực tiếp với con người, mà nó phải được trải qua một quá trình đào tạo dần dần, thực hành dần dần và hoàn thiện dần dần trên cơ sở các yêu cầu thử nghiệm và khoa học. Theo Đức Phật, con người là chủ nhân của những hành động, do đó, con người phải chịu lấy trách nhiệm về số phận của chính mình. Hành vi đạo đức do trí tuệ và tình yêu mang lại cho con người một cuộc sống hạnh phúc, trong khi những hành động vô đạo đức thúc đẩy bởi vô minh và tham ái sẽ dẫn đến kết quả đau khổ. Do đó giáo dục Phật giáo đặt sự nhấn mạnh vào việc thực hiện những việc làm tốt và khích lệ con người hướng đến một đời sống tự chủ.
Trong rất nhiều phương pháp giáo dục của Phật giáo, giáo dục giới định tuệ được xem là phương pháp giáo dục hữu hiệu nhất, đúng đắn và trọn vẹn nhất trong việc kiện toàn về tư cách đạo đức, kiến thức và kinh nghiệm. Nó cung cấp cho con người tất cả mọi mặt về đức dục, trí dục và thể dục. Hoàn thiện ba đức tánh này điều tất yếu phải thực hành giáo dục tam vô lậu học.
Giáo dục về giới: là giúp con người nhận thức được khả năng phòng hộ trong con người nhằm ngăn chặn các bất thiện pháp từ bên ngoài và khởi lên từ trong tâm. Mặc khác giúp hành giả biết rõ về thiện ác, tự tâm thích nghi với pháp thiện và phản ứng với điều ác. Thiện thì huân tập, thực hành; ác thì phòng tránh, đoạn trừ.
Giáo dục thiền định: Giáo dục thiền định là sắc thái giáo dục rất đặc biệt của Phật giáo; nó là con đường giáo dục tâm lý và trí tuệ, dạy con người tinh thần tự chủ, tự tri, tự tin và sáng tạo, dạy con người chuyển đổi các tâm lý tiêu cực thành tích cực, chuyển đổi các tâm lý bi quan thành lạc quan, dạy con người huấn luyện ký ức tốt đẹp để tiếp thu kiến thức dễ dàng…
Giáo dục đánh thức: Đức Phật chỉ là vị chỉ đường, con người phải thực hiện con đường bằng chính nỗ lực của mình. Do đó, giáo dục Phật giáo nổi bật sắc thái đánh thức, mà không nhồi nhét kiến thức. Một nền giáo dục như thế đặt nặng về phương pháp nhận thức và hành động mà không đặt nặng ký ức. Đây là giáo dục của sáng tạo.
Từ những kinh nghiệm thực tế, chúng ta có thể rút ra được những bài học mang lợi ích thiết thực trong phương pháp giáo dục giới định và tuệ. Cụ thể như sau:
- Giáo dục về giới hay đạo đức: nhằm giúp cho người trẻ tuổi biết về các chuẩn mực đạo đức trong xã hội, biết đóng góp cho sự phát triển của xã hội.
- Giáo dục về thiền định, giúp con người luôn làm chủ bản thân, nuôi dưỡng được những đức tính trầm tĩnh, kham năng và từ bi độ lượng.
- Giáo dục trí tuệ, giúp cho những người trẻ tuổi luôn luôn biết tư duy và hành động một cách đúng đắn, luôn biết sáng tạo trong phát triển bền vững.
Như vậy giới định tuệ là mảnh đất kim cương để giới trẻ tự đào luyện thân tâm và nuôi lớn lý tưởng phụng sự cuộc đời. Ở đó, hành giả có đầy đủ các tố chất để thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình để cống hiến và phụng sự. Mảnh đất kim cương này đòi hỏi
chúng ta phải khéo léo để sử dụng sao cho nó phát huy hết các tính năng và mang lại hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, Tam vô lậu học giới, định, tuệ là một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh của Phật giáo đã được đức Phật giới thiệu trong tam tạng kinh, luật và luận. Có rất nhiều phương pháp, trong đó, nổi bật và ý nghĩa nhất là ‘Giáo dục dần dần’, ‘Giáo dục toàn diện’ và ‘Giáo dục đưa đến đoạn tận khổ đau’ mà chúng tôi sẽ tuần tự trình bày.
-
- Đào tạo dần dần
Phương pháp tiếp cận giáo dục của Ðức Thế Tôn có thể được phân loại thành hai loại: đốn ngộ (magga ekayano) và tiệm tu (anupubbikatha). Phương pháp đốn ngộ chỉ có thể áp dụng trong việc thực hành Thiền định, trong đó bao gồm các thiền ngữ và thực hiện các bước thiết thực để thực hành, áp dụng chúng thông qua những kinh nghiệm để thể nhập và đạt được các cấp độ trong thiền định. Phương pháp tiệm tu tức nói đến việc tiếp cận qua phương pháp đào tạo dần dần, dẫn đến sự tiến bộ trong đời sống tâm linh, bằng cách thiết lập niềm tin dần dần, giác ngộ dần về Phật đạo. Sự giác ngộ này tùy thuộc vào khả năng trí tuệ của từng cá nhân mà dẫn đến các mức độ thành tựu tâm linh khác nhau.4 Giáo dục theo phương pháp đốn tu (ekayano magga) chỉ có thể áp dụng cho những đối tượng có căn cơ trình độ cao, như thiền ngữ thường hay nói: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.’5 Đó là phương pháp dĩ tâm truyền tâm, rất khó và ít người có thể lãnh hội được.
Đào tạo dần dần được thấy rõ trong kết cấu của tam vô lậu học giới, định và tuệ. Giới là bước đầu tiên, định là cấp độ kế tiếp và cuối cùng là tuệ. Trung Bộ kinh 70, kinh Kītāgiri Đức Phật chỉ ra rằng: “Trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ, hành từ từ, thực tập từ

![]()
-
- Dr. Ch. Venkata Siva Sai, Buddhist education Theory and practice, Prashant Publishing House, Delhi, 2014, p. 3.
- For Translation see D.T. Suzuki, Esays in Zen Buddhis, Rider and Company Ltd, London, 1949, vol.1, p. 176.
từ.”6 “Ví như, này Pahārāda, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vực thẳm. Cũng vậy, này Pahārāda, trong Pháp và Luật này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí thình lình.”7[4] Từ quan điểm này, Đức Phật đã đề xuất các giải pháp mà bất cứ ai muốn đi tìm chân lý sự thật trước tiên nên quán sát toàn diện rằng nó có xứng đáng là con đường thánh thiện để mình gia nhập. Nếu sau khi quán sát toàn diện, vị ấy thấy rằng đó là bậc thầy xứng đáng cung kính, tôn trọng, xứng đáng hầu cận cúng dường, từ đó vị ấy bắt đầu thực hành theo một số bước xem xét như sau: ( 1) xem xét kiểm tra, (2) có niềm tin, (3) đi đến gần, (4) tiếp cận tỏ sự kính lễ, (5) vị ấy lóng tai, (6) vị ấy nghe pháp, (7) vị ấy thọ trì pháp, (8) vị ấy suy tư ý nghĩa các pháp được thọ trì, ( 9) các pháp được chấp thuận, (10) ước muốn sanh khởi, (11) vị ấy nỗ lực,
(12) vị ấy cân nhắc, (13) vị ấy tinh cần phấn đấu chứng được sự thật tối thượng. Theo Đức Phật, mười ba bước như vậy là hoàn toàn cần thiết cho việc thực hiện sứ mệnh đi tìm chân lý sự thật và mỗi bước có một nhiệm vụ nhất định trong việc đạt đến mục đích khác.8 Như vây, rõ ràng giáo lý của Đức Phật trình bày trong một hình thức tiếp cận dần từ thấp đến cao.
Đối với người xuất gia, Đức Phật cũng đưa ra phương pháp giáo dục dần dần theo trình tự từ Thánh giới uẩn (adhi-sīla), Thánh định uẩn (adhi-citta), và Thánh Tuệ uẩn (adhi-panññā). Tam vô lậu học là con đường tuần tự tăng dần từ nông đến sâu, thấp đến cao. Một trong những công cụ giảng dạy phổ biến nhất của Đức Phật sử dụng để đáp ứng cho các hội chúng với môi trường thuận lợi nhất cho sự thức tỉnh là phương thức đào tạo dần dần, hoặc kỹ thuật tiến bộ, ‘ngôn ngữ tăng dần’ (anupubbī, katha). Phương pháp giảng dạy này dẫn đến sự thành tựu về định niệm và pháp nhãn (con mắt pháp). Ba

![]()
-
- Bhikkhu Ñāṇamoli and Bhikhu Bodhi, (trans.), Majjhima nikāya,The Middle Length Dis- courses of the Buddha, Wisdom Publication, Bostion, 2009 (4th ed), p. 583-84.
- E. M. Hare, The Book of the Gradual Sayings, Vol. IV, Motilal Banarsidass,Delhi, 2006, p.138.
8. Ibid, pp. 363-365.
phần chính của lời dạy về giới, định và tuệ của Đức Phật: xuất hiện từ trong những bài kinh sớm của Phật giáo Nguyên thủy và những bài kinh thuộc kinh tạng Bát nhã muộn hơn về sau. Phương pháp đào tạo dần dần là một sự mở rộng gồm ba phần, chúng mở rộng bằng cách cung cấp thực hành chi tiết dẫn đến các kỹ năng cần thiết để hoàn thiện trọn vẹn.9
Kinh Ganaka Moggallāna cho chúng ta thấy quá trình đào tạo dần dần diễn ra trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ. Bà la môn hỏi Đức Phật có thể trình bày chăng, thưa Tôn giả Gotama, trong Pháp và Luật này, cũng có một tuần tự học tập, một tuần tự công trình, một tuần tự đạo lộ, Đức Phật trả lời: “Có thể trình bày, này Bà-la- môn, trong Pháp và Luật này, có một tuần tự học tập, có một tuần tự công trình, có một tuần tự đạo lộ.”10
Như vậy giới định tuệ được bản kinh giới thiệu tuần tự tăng dần theo cấp độ tu tập từ sơ cơ đến hoàn thiện trọn vẹn đạo quả giải thoát. Theo đó, giới là nền tảng đầu tiên trong chương trình đào tạo, định và tuệ là bước tiếp theo và cuối cùng tuệ là để hoàn tất đạo lộ đó. Tiến trình này được thực hiện một cách khoa học và sư phạm. Đó là phương pháp đào tạo cơ bản, phổ thông để áp dụng đồng bộ trong tất cả các trường phái Phật giáo, cũng như áp dụng trong tất cả mọi nền giáo dục. Đào tạo dần dần làm cho người học dễ dàng nắm bắt tiếp thu có hiệu quả tùy theo độ tuổi, trình độ kiến thức cũng như khả năng. Nhờ sự giải thích rõ ràng, ngắn gọn và thấu đáo về việc đào tạo dần dần mà Đức Phật đã giảng dạy cho chư vị đệ tử và cho bất kỳ ai cũng có thể nắm bắt và thực hành để đạt được kết quả theo sự thực hành đó.
Việc đức Phật chú trọng vào phương pháp đào tạo dần dần có thể được hiểu từ thực tế rằng những tập khí, lậu hoặc huân tập trong

![]()
- Right Concentration: A Practical Guide to the Jhanas, http://rc.leighb.com/more/ The_Gradual_Training.htm, 19.05.2016.
- Trung Bộ kinh, kinh, 107. Kinh Ganaka Moggallàna (Ganakamoggallàna sutta), Bhikkhu Ñāṇamoli and Bhikhu Bodhi, (trans.), Majjhima nikāya, The Middle Length Discourses of the Buddha, Wisdom publication, Boston, 2009 (4th ed), pp. 874-876.
con người làm phát sinh đau khổ trong một thời gian quá dài, thành ra muốn đoạn trừ chúng thì cũng phải đoạn trừ dần dần từng bước theo đúng phương pháp và phải mất một thời gian dài nỗ lực mới hoàn thiện trọn vẹn. Tất cả những điều này cho chúng ta thấy rằng đào tạo dần dần như là một nguồn đáng tin cậy để hỗ trợ trong việc tìm hiểu chính xác những gì Đức Phật đã dạy.
Đức Phật đã nhiều lần chỉ rõ sự giác ngộ không thể diễn ra ngay lập tức, đột ngột khi chưa được thực hành, tâm chưa thực sự sẵn sàng mà nó phải được nuôi dưỡng, nỗ lực phấn đấu thực hành trong thời gian dài qua nhiều giai đoạn. Vô số sinh viên trong nhiều thế kỷ đã đầu tư thời gian và năng lượng của họ cho câu hỏi, ”Có phải giác ngộ ‘bất ngờ’ hay là ‘dần dần’?” Những điều này và những đoạn khác của kinh tạng như đã trình bày ở trên cho chúng ta thấy rõ ràng về quan điểm của Đức Phật rằng: ‘Cái tâm phát triển dần dần, cho đến khi nó chín muồi là cả một quá trình trước khi tâm tỏ ngộ bừng sáng đạt đến giác ngộ hoàn toàn.’
-
- Giáo dục toàn diện
Ở đây, chúng ta hãy bắt đầu với khái niệm toàn diện. Toàn diện nghĩa là không khiếm khuyết, không chênh lệch, mà là sự kiện toàn, đầy đủ, trọn vẹn và cân bằng. Như vậy giáo dục toàn diện là con đường giáo dục phải đáp ứng trọn vẹn những yêu cầu trên.
Chủ trương của hầu hết các hệ thống giáo dục đương thời là đào tạo con người trên ba phương diện: trí dục, đức dục và thể dục nhằm tạo ra một mẫu người toàn diện theo cách nhìn thông thường của thế gian. Và ở một mức độ nào đó ta thấy rằng nếu có một người viên mãn cả ba phương diện này là đã kiện toàn một mẫu người để có thể đáp ứng được các nhu cầu cấp thiết cho cuộc đời. Tuy nhiên, vấn đề sanh, lão, bệnh, tử, phiền não, khổ đau vẫn chưa giải quyết được và hãy còn đó. Một nền giáo dục mà chưa giải quyết được nỗi khổ đau cho nhân loại, chưa mang lại hạnh phúc thiết thực và dài lâu cho chúng sanh thì chưa phải là một nền giáo dục toàn diện.
Theo HT. Thích Chơn Thiện: “Một nền giáo dục chỉ dạy những
kiến thức chuyên môn để một chiều đáp ứng các mục tiêu xã hội thì không phải là giáo dục toàn diện. Một nền giáo dục chỉ cung cấp kiến thức, rèn luyện sức khoẻ và một số vấn đề luân lý, đạo đức, đầy ước lệ cũng không phải là toàn diện. Một nền giáo dục trao truyền kiến thức, thể dục, đức dục, mỹ dục, sinh lý và lao động cũng chưa nói lên được ý nghĩa toàn diện. Vấn đề đường hướng giáo dục này trở nên toàn diện hay không là do có cái nhìn nhất quán và toàn diện về con người hay không. Đặt vấn đề như thế là đặt vấn đề về mẫu người giáo dục. Con người là gì cần được xác định trước khi quyết định nội dung phải dạy con người những gì và dạy như thế nào. Các đường hướng giáo dục tiên tiến vẫn thường bất ổn trong việc xây dựng mẫu người này. Phật giáo đặc biệt nổi bật ở trí tuệ, nhìn thấy con người và sự vật như thật, nên hy vọng sẽ đề bạt được một mẫu người khả dĩ lý tưởng”.11
Giới định tuệ là một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh về đạo đức, tâm và tuệ. Ở phần đào tạo dần dần trong tam vô lậu học, nó sẽ tạo nên sự kết nối, bổ sung để đưa đến sự hoàn thiện trọn vẹn. Trong đó, điểm mấu chốt của phương pháp giáo dục này vẫn nằm ở tuệ học. ‘Trí tuệ như thế là tối thượng của toàn bộ hệ thống giáo dục Phật Giáo, và tất cả những bước căn bản trong hệ thống giáo dục Phật Giáo nên ăn khớp với đức tính tối thượng này. Đó là với bước căn bản này thì giáo dục đạt được sự hoàn thiện.’12
Trọng điểm của giáo dục là chỉ rõ lòng tham ái, chấp thủ, là gốc của khổ đau mà không phải là thế giới vật lý thường xuyên trôi chảy, và đồng thời chỉ rõ gốc của an lạc, hạnh phúc thực sự là trí tuệ hay trí tuệ giải thoát. Từ đây, nhà giáo dục Phật giáo cần xác định một số nội dung của giáo dục: Trí tuệ (wisdom) chứ không phải là kiến thức (knowledge). Kiến thức chỉ là sản phẩm của tư duy ngã tính, một phần tố của con người, mà không phải là con người toàn diện. Nó không nói lên thực tại vô ngã và hạnh phúc chân thật vô ngã.

![]()
- Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, Nxb. Tôn giáo, p. 97.
- Bhikkhu Bodhi, Aims of Buddhist Education, The Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka, 1998, p.2.
Chỉ có khi trí tuệ (chánh kiến và chánh tư duy) có mặt thì con người toàn diện mới có mặt. Giáo dục toàn diện là giáo dục vừa cung cấp kiến thức vừa tạo điều kiện cho trí tuệ ấy sinh khởi. Đó là con đường giáo dục giới, định, tuệ.
Trong kinh Tiểu Kinh Phương Quảng (Cùlavedalla sutta), Trung Bộ 44, cho chúng ta thấy sự bao hàm rộng lớn của Tam vô lậu học qua cuộc đối thoại giữa đức Phật và hiền giả Visakha như sau:
“Thưa Ni sư, ba uẩn được Thánh đạo Tám ngành thâu nhiếp hay Thánh đạo Tám ngành được ba uẩn thâu nhiếp? Hiền giả Visakha, ba uẩn không bị Thánh đạo Tám ngành thâu nhiếp; Hiền giả Visakha, Thánh đạo Tám ngành bị ba uẩn thâu nhiếp. Hiền giả Visakha, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng, những pháp này được thâu nhiếp trong giới uẩn. Chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, những pháp này được thâu nhiếp trong định uẩn. Chánh tri kiến và chánh tư duy, những pháp này được thâu nhiếp trong tuệ uẩn.”13
Thánh đạo Tám ngành được xem là Đạo đế trong Tứ diệu đế, là con đường Trung đạo xa rời hai cực đoan, là đạo lộ duy nhất đưa đến đoạn tận khổ đau, chứng nhập Niết bàn giải thoát. Vậy mà Thánh đạo Tám ngành bị ba uẩn (giới - định - tuệ) thâu nhiếp như lời Thế Tôn vừa trình bày đủ để thấy sự trọn vẹn, viên dung và rộng lớn của Tam vô lậu học.
Ở đây, vì Bát chánh đạo bị ba uẩn thâu nhiếp trong nó, do đó, vì tính đặc trưng, nó được bao gồm trong ba uẩn như một thành phố của một vương quốc. Vì vậy, tại sao nói rằng Bát chánh đạo gồm trong ba uẩn, nhưng không phải ngược lại? Gethin giải thích: Ba uẩn giới, định, tuệ là một mô hình toàn diện của các giai đoạn trong con đường tâm linh. Về mặt nội dung nó bao gồm các giai đoạn đầy đủ, và toàn diện. Trong khi phản ánh bản chất chung của các giai đoạn thực tế của con đường, nó còn đại diện cho một cái gì đó trong một phần của kế hoạch lý tưởng. Trong khi đó, các chi phần của Bát Thánh đạo đều mang một nội dung, ý nghĩa riêng biệt. Nên

![]()
- Trung Bộ Kinh, Tập 1, Tiểu Kinh Phương Quảng, 44, Nxb. Tôn giáo, 2016, p. 369.
nó không thể ôm trọn bao quát nội dung đầy đủ của ba uẩn giới, định, tuệ. Tám chi phần của Bát chánh đạo mang tám nội dung riêng biệt, và nó chỉ có thể hỗ tương cho nhau để hoàn thiện nhau trong khi ứng dụng thực hành. Đây là tám chi phần đại diện cho một tập thể của thánh đạo tám ngành (nên nhớ là Bát chánh đạo là thánh đạo tám ngành chứ không phải, thánh đạo có tám con đường), được phân chia thành ba uẩn (giới, định, tuệ), vì vậy mà Bát thánh đạo có thể được xem như là chưng cất thiết yếu của các uẩn (giới, định, tuệ). Nói cách khác, sự phát triển của giới, định, tuệ trong tất cả các khía cạnh khác nhau đạt đến sự toàn bích trong chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tin tấn, chánh niệm, và chánh định. Giới, định, tuệ là ba khía cạnh thiết yếu của thực hành tâm linh trong sự cân bằng hoàn hảo. Chỉ bằng cách này việc xử lý của Bát thánh đạo trong Tiểu kinh Phương quảng (Cùlavedalla sutta) trở nên dễ hiểu.
Lại nữa, như chúng ta biết, thành tựu Tam minh của Phật là do viên mãn về giới, định, tuệ. Thiên nhãn, túc mạng, lậu tận. Thiên nhãn thuộc tuệ, túc mạng thuộc định, lậu tận thuộc giới. Đức Phật là hiện thân của tất cả các đức tính tuyệt vời. Trong Ngài là hiện thân của đạo đức cao nhất (sīla), thiền định sâu nhất (samādhi) và trí tuệ sáng suốt nhất (paññā) - chất lượng vượt trội và chưa từng có trong lịch sử loài người. Như vậy, giáo dục giới định tuệ là con đường giáo dục toàn diện nhất, không có con đường giáo dục nào khác toàn diện hơn con đường này.
-
- Giáo dục đưa đến đoạn tận khổ đau
Rất nhiều bản kinh trong tạng Pāli đức Phật nói đến nguyên nhân của khổ đau là do không liễu tri về giáo lý tứ đế, chính vì không thâm hiểu về thập nhị nhân duyên mà chúng sinh hiện tại rối ren như tổ kén, không thể nào ra khỏi, ác thú đọa xư, sanh tử. Như giải thích ở phần trước, tuệ là sự thấu biết như thật về khổ, vô thường, vô ngã. Một nơi khác định nghĩa tuệ là hiểu rõ về Tứ đế, Thập nhị nhân duyên… nên tuệ là yếu tố duy nhất chặt đứt phiền não lậu hoặc, chấm dứt khổ đau.
Kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường Bộ 16, khẳng định: Do không liễu tri, không thâm nhập về giới, định và tuệ mà chúng sinh phải trôi lăn vào ra trong vòng luân hồi lục đạo chịu nhiều đau khổ. “Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt bốn Pháp mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Giới mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Ðịnh mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Tuệ mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử.”14
Và bản kinh cũng khẳng định, khi thánh giới, thánh định và thánh tuệ được giác ngộ khi đó sự khổ đau sanh tử luân hồi mới được đoạn tận. “Này các Tỷ-kheo, khi Thánh Giới được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh Ðịnh được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh Tuệ được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh Giải thoát được giác ngộ, được chứng đạt, thời tham ái một đời sống tương lai được trừ diệt, những gì đưa đến một đời sống mới được dứt sạch, nay không còn một đời sống nào nữa.”15
Nhờ có giới chế ngự được các nguyên nhân gây nên tham ái, nhờ có định và tuệ cắt đứt tận cùng gốc rễ của vô minh và tham ái nên đoạn tận được khổ đau. Như vậy Tam vô lậu học là phương tiện duy nhất đưa đến chấm dứt khổ đau sanh tử luân hồi: ‘Bởi vì, khi vị Tỷ kheo dấn mình vào việc vượt qua sa mạc sinh tử bằng phương tiện ba môn học… như người muốn qua sông dùng bè, vượt biển dùng tàu vậy.’
4. KẾT LUẬN
Tam vô lậu học là một chương trình giáo dục, một hệ thống tu học hoàn chỉnh cho hàng đệ tử Phật. Đây là một hệ thống giáo lý tốt

![]()
14. Thích Minh Châu (dịch), Trường Bộ Kinh, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Nxb. Tôn giáo, 2016, p. 314.
15. Sđd, tr. 315.
ở điểm khởi đầu, ở chặng giữa và đoạn cuối. Ba phương pháp giáo dục như nêu ở trên cho thấy sự trọn vẹn của một con đường. Chúng như một hạt mưa hàm chứa trong đó tất cả sông ngòi và biển lớn. Không có nó thì mặt đất sẽ trở thành hoang mạc. Nếu thiếu giới, định, tuệ thì nhân loại hoang tàn trong đau khổ, tranh chấp và triền miên trong sinh tử. Thành ra giới định tuệ là mảnh đất kim cương để hành giả tự đào luyện thân tâm và nuôi lớn lý tưởng phụng sự cuộc đời. Ngang qua thực hành, hành giả có đầy đủ các tố chất để thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc cống hiến và phụng sự nhân sinh. Mảnh đất kim cương này đòi hỏi chúng ta phải khéo léo sử dụng sao cho phù hợp nhằm phát huy hết các tính năng, mang lại hiệu quả cao trong lộ trình tìm cầu chân lý giải thoát.
***
Tài liệu tham khảo
Bhikkhu Bodhi, Aims of Buddhist Education, The Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka, 1998.
Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, Nxb. Tôn giáo.
Dr. Ch. Venkata Siva Sai, Buddhist education Theory and practice, Prashant Publishing House, Delhi, 2014.
- T. Suzuki, Esays in Zen Buddhis, Rider and Company Ltd, Lon- don, 1949, vol.1.
Bhikkhu Ñāṇamoliand Bhikhu Bodhi,(trans.), Majjhimanikāya,The Middle Length Discourses of the Buddha, Wisdom Publication, Bostion, 2009.
- M. Hare, The Book of the Gradual Sayings, Vol. IV, Motilal Banar- sidass, Delhi, 2006.
Majjhima nikāya, The Middle Length Discourses of the Buddha, Wis- dom publication, Boston, 2009.
Thích Minh Châu (dịch), Trường Bộ Kinh, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Nxb. Tôn giáo, 2016.