SỰ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ GIÁO DỤC ĐẠI CHÚNG
TS.TT. Thích Giác Hiệp
- KHÁI QUÁT VỀ GIÁO DỤC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
Giáo dục làm thăng tiến tâm thức và phát triển xã hội. Vai trò của Phật giáo rất quan trọng trong giáo dục, vì Phật giáo chủ trương hoàn thiện tâm thức cá nhân, và xã hội. Con người có khả năng nhận thức và lý luận. Tâm con người là phương tiện cơ bản để sinh tồn và phương tiện để đạt được tri thức. Con người không thể sống chỉ cần những nhu cầu vật chất đơn giản mà còn cần sự tiến triển tinh thần. Sự tiến triển tinh thần này gọi là tiếp thu tri thức hay giáo dục. Nếu không có khả năng giáo dục và được giáo dục nhân loại không có được những thành tựu như ngày nay. Giáo dục đem lại 4 điều lợi ích cho con người:
-
- Có được tri thức cần thiết cho sự sinh tồn.
- Phát triển khả năng của con người.
- Hướng dẫn con người cách sống.
- Giúp con người nhận rõ được lý tưởng cá nhân.
- Hệ thống giáo dục Ấn Độ trước Phật giáo
Hệ thống giáo dục Ấn Độ thời cổ đại mang màu sắc tôn giáo. Phật giáo chịu ảnh hưởng một phần của hệ thống giáo dục Ấn Độ cổ đại. Lịch sử hệ thống giáo dục Ấn Độ cổ đại bắt nguồn rất sớm, vào khoảng trước năm 2000 trước Tây lịch. Mục đích giáo dục thời cổ đại đặt trọng tâm vào sự phát triển hài hòa con người. Thân, tâm, trí tuệ và tinh thần được cho là sự hình thành con người, giáo dục phát triển toàn bộ những điểm này. Giáo dục giai đoạn này mang tính phổ biến cho 3 giai cấp: Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, thương gia.1
- Hệ thống giáo dục Phật giáo
Sự phát triển giáo dục Phật giáo có thể chia ra làm 4 giai đoạn:
-
- Giai đoạn 1: giai đoạn Đức Phật còn tại thế. Đây là giai đoạn thiết lập Tăng đoàn và Tinh xá.
- Giai đoạn 2: từ thế kỷ V trước Tây lịch đến thế kỷ III trước Tây lịch là giai đoạn hình thành Thánh điển. Đây là giai đoạn diễn ra một số cuộc kiết tập Thánh điển. Nội dung giáo dục bao gồm giáo dục đạo đức. Những bộ Thánh điển được hình thành như: Giới kinh, Chuyện tiền thân, Trưởng lão Tăng kệ, Trưởng lão Ni kệ, Pháp cú… Các vị Sa-di được giảng dạy và học thuộc những bộ này.
- Giai đoạn thứ 3: từ thế kỷ III trước Tây lịch đến thế kỷ IV. Thời gian trôi qua nhiều thay đổi diễn ra trong hệ thống giáo dục Phật giáo. Giai đoạn này hầu như hệ thống giáo dục Phật giáo đã thay thế cho hệ thống giáo dục Bà-la-môn giáo. Tu viện trở thành những trung tâm giáo dục chính thức. Rất nhiều người không phải Phật giáo cũng tham gia vào tu viện để tham học. Một số tác phẩm được giảng dạy trong tu viện để phổ biến giáo dục đạo đức, như: (a) Về nội điển gồm: Kinh, luật, luận, (b) Về ngoại điển gồm: Vệ-đà, yoga, âm vị học, phép làm thơ, văn phạm, thiên văn học…
-
- Giai đoạn thứ 4 từ thế kỷ IV đến thế kỷ XII: Cuối thế kỷ IV, tu viện Phật giáo trở thành những trung tâm giáo dục quan trọng giống như hệ thống đại học thời hiện đại, thu hút sinh viên khắp nơi, trong và ngoài Ấn Độ.2
Hệ thống giáo dục của Phật giáo và Bà-la-môn giáo không khác nhau nhiều. Bà-la-môn giáo tiêu biểu cho hệ thống giáo dục truyền thống của Ấn Độ. Cả hai hệ thống có những lý tưởng, phương pháp giống nhau. Có một số điểm giống nhau giữa hai hệ thống này:
- Cả hai hệ thống đề cập đến giáo đoàn phải có cuộc sống thanh tịnh, độc thân. Cả hai hệ thống chủ trương rằng tham đắm là nguyên nhân khổ đau.
- Quá trình nhập học hầu như giống nhau. Cả 2 hệ thống đều tiến hành một số nghi thức nhập học giống nhau.
- Phương pháp giảng dạy cả hai hệ thống giống nhau, học thuộc các bài học, chú ý phát triển đạo đức, xã hội, bàn thảo, tranh luận.
s. Phương pháp trị phạt cả hai đều giống.3
Phương pháp trị phạt của hai hệ thống có phần giống nhau. Tuy nhiên, cũng có một vài điểm khác nhau giữa hai hệ thống giáo dục này.
- Hệ thống giáo dục Bà-la-môn đào tạo học trò sau khi hoàn tất việc học tham gia vào xã hội. Hệ thống giáo dục của Phật giáo hướng học trò sống cuộc sống tu viện. Do vậy, theo quan điểm thế tục, giáo dục Bà-la-môn toàn diện hơn. Vì một người sau khi được giáo dục trong hệ thống này có thể bước chân vào cuộc sống thực tế không bị bỡ ngỡ.
- Hệ thống giáo dục của Bà-la-môn giáo dựa và cơ sở giai cấp, nhưng trong Phật giáo ngay cả những người giai cấp thấp cũng có thể tham gia. Phật giáo chủ trương phá bỏ giai cấp.
- Việc sử dụng ngôn ngữ, hệ thống giáo dục của Bà-la-môn giáo chỉ sử dụng Sanskrit, ngược lại Phật giáo tự do sử dụng các ngôn ngữ, như: Pāli, Sanskrit hay ngôn ngữ địa phương. Chính Đức Phật chủ trương giáo pháp nên được thuyết giảng bằng ngôn ngữ của mọi người.
- Hệ thống giáo dục của Bà-la-môn giáo mang hình thức gia đình, thầy như người cha và học trò là thành viên của gia đình. Học trò tự nhiên trở nên ít. Quy tắc nghiêm khắc việc học vững chắc hơn. Tu viện Phật giáo thu hút lượng học trò ngày một đông và giống như hình thức trường đại học, cả hàng ngàn sinh viên.4
- Tu viện Phật giáo là trung tâm giáo dục
Tu viện Phật giáo trở thành những trung tâm giáo dục dành cho tu sĩ Phật giáo và người thế tục. Hệ thống giáo dục của Bà-la-môn giáo trước đó hoàn toàn bị lu mờ. Bản chất toàn diện của hệ thống giáo dục Phật giáo đã cung cấp mọi nhu cầu tri thức cho giới Phật giáo và các nhà nghiên cứu Phật học. Những trung tâm giáo dục như thế thường được vua, quan và giới thương gia nhiệt tình ủng hộ về mọi mặt, tu và học. Những trung tâm này phát triển giống như những trường đại học thời hiện đại.5 Một số tu viện Phật giáo phát triển theo hình thức này, như:
-
- Đại học Nālandā
Ở Ấn Độ cổ đại, có thể nói đại học Nālandā là trung tâm giáo dục nổi tiếng nhất của Phật giáo. Ngài Nghĩa Tịnh, ngài Huyền Trang từng sống và tham học tại đại học Nālandā. Theo ghi chép của 2 ngài, đại học này có hơn 3.000 sinh viên. Có khi số lượng sinh viên lên 10.000. Tứ sự đều được cung cấp miễn phí cho sinh viên. Sinh viên đến từ mọi miền của Ấn Độ và ngay cả nước ngoài như Tây Tạng, Trung Quốc, Triều Tiên… Luật nhập học rất nghiêm khắc chỉ có những ai thông thạo những môn học cổ và hiện đại mới được nhập học. Như vậy đây là một học viện ở mức độ nâng cao. Khoảng 1.500 giáo sư phụ trách 8.500 sinh viên. Hàng ngày có đến trăm bài thuyết giảng. Nhiều vị tổ sư lỗi lạc của Ấn Độ hoặc nước ngoài xuất thân từ đây, như ngài Đề-bà, Giới Hiền, Hộ Pháp, Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... Hệ thống thư viện của đại học rất phong phú.6
-
- Đại học Valabhī
Đại học này có thể nói là đối thủ của đại học Nālandā. Đại học tọa lạc ở Valabhī, kinh đô của vương triều Maitraka (475-775). Đại học này cũng được vương triều ủng hộ. Số lượng sinh viên đông tương đương với đại học Nālandā.7
-
- Đại học Vikramaśilā:
Đại học này cũng có vị trí như hai đại học trên. Hội đồng điều hành đại học này cũng điều hành đại học Nālandā. Do vậy nên có sự trao đổi giáo sư giữa hai đại học này. Ngoài ra còn có một số tu viện Phật giáo khác phát triển theo hình thức đại học trong thời đại này.
Học viên trong các đại học được phân chia ra làm nhiều lớp tùy theo trình độ khác nhau. Lớp thấp nhất bao gồm những vị đọc tụng kinh, lớp kế tiếp bao gồm những vị thông thạo luật, bàn luận luật với nhau, lớp cao hơn nữa là những vị chuyên về luận, luyện tập thuyết giảng trước khi giảng chính thức. Và lớp cao nhất là những vị thực hành bốn loại thiền định. Ngoài ra có những vị xuất sắc về thế học. Như vậy chúng ta thấy rằng trong hệ thống giáo dục Phật giáo từ ban đầu đã nhấn mạnh việc tranh luận (debate) để cho các Tỳ-kheo có được những kinh nghiệm rèn luyện cần thiết trước khi đi truyền bá giáo pháp. Thật sự trong suốt cuộc đời thuyết pháp độ sanh Đức Phật đã gặp nhiều cuộc tranh luận, giải thích với Bà-la-môn, Kỳ-na giáo và những câu hỏi được hội chúng đặt ra.8
Chúng ta thấy thời kỳ Đức Phật mỗi vị đệ tử của ngài chuyên về từng lãnh vực, như ngài Ưu-ba-li chuyên về luật tạng, ngài Xá-lợi- phất có trí tuệ xuất sắc… Tiếp nối truyền thống đó, hệ thống giáo dục trong thời kỳ phát triển đã huấn luyện học trò theo từng lãnh vực riêng biệt phù hợp với khả năng và năng khiếu của từng người. Như thế mới phát triển được tiềm năng của mỗi người. Nếu không chú trọng đến năng khiếu của từng người, chúng ta sẽ làm lãng phí khả năng của họ.
Giáo dục Phật giáo hướng vào việc nâng cao đạo đức con người và đồng thời cũng đào tạo một số học giả lỗi lạc cho xã hội. Giáo dục Phật giáo nhằm tạo ra một xã hội lý tưởng thông qua Phật pháp.
Từ thế kỷ III trước Tây lịch đến thế XII nhiều tu viện Phật giáo trở thành trung tâm giáo dục Phật giáo để truyền bá giáo pháp. Mọi phương tiện sinh hoạt tại những trung tâm này được cung cấp miễn phí cho sinh viên. Cả cuộc sống của sinh viên và tu sĩ đều tuân thủ theo luật lệ tu viện. Các môn học bao gồm tôn giáo và thế tục, chỉ trừ những môn liên quan đến quân sự, phục vụ quốc gia không được dạy.
Giáo dục Phật giáo là lý tưởng hoàn thiện xã hội và con người. Lý tưởng này vẫn được truyền thừa qua nhiều thế hệ nhằm đem lại hài hòa, thịnh vượng và hạnh phúc cho con người, xã hội. Đức Phật chẳng những là một triết gia lỗi lạc, một đạo sư chuẩn mực mà còn là một nhà giáo dục vĩ đại.
- PHẬT PHÁP VÀ GIÁO DỤC ĐẠI CHÚNG
Giáo dục làm thay đổi con người và chuyển hóa xã hội đến mức độ hoàn thiện hơn. Vai trò của Phật giáo rất quan trọng trong giáo dục. Cuộc sống hiện đại ngày nay có những tác động tiêu cực khiến con người không sống đúng với chuẩn mực đạo đức. Chủ nghĩa vị kỷ, lối sống vật chất được đề cao làm cho nền tảng đạo đức bị xói mòn, xuống cấp. Giáo lý Phật giáo hướng vào việc nâng cao đạo đức con, giúp xã hội, con người hoàn thiện hơn. Để đạt được lý tưởng này cần những yếu tố tiêu biểu:
-
-
- Giáo dục con người tư duy hợp lý
“Duy tuệ thị nghiệp” là chủ trương quan trọng của Phật giáo. Người thiếu trí sẽ có những tư duy sai lầm, tin vào giáo điều, truyền thống phi lý, tập tục hủ hóa. Xã hội sẽ văn minh, con người ứng xử hợp lý khi sống theo lý trí suy xét vấn đề, không tin mù quáng vào bất cứ điều gì khi chưa thẩm xét. Bằng cách phá bỏ mê tín, niềm tin mù quáng, lễ nghi hủ tục và nô lệ tri thức, Phật giáo xác lập chánh tín cho quần chúng và đặt nền tảng cho những cải cách xã hội. Đức Phật được tán thán trong Kinh Trường Bộ:
… như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để cho ai có mắt có thể thấy.9
-
-
- Giáo dục bình đẳng, công bằng
Ðức Phật là một bậc thầy tâm linh, nhà cải cách xã hội, nhà giáo dục vĩ đại. Quay lại với bối cảnh xã hội Ấn Độ ta thấy rõ điều này. Luật lệ tôn giáo, xã hội ở Ấn Độ, được ghi trong văn chương Vệ đà, truyện cổ tích, chuyện tiền thân và các nguồn khác, rất hà khắc, áp bức, dã man đối với số đông quần chúng. Trẻ em của giai cấp nô lệ thường bị bắt buộc theo nghề của cha, mẹ. Vai trò của phụ nữ không được coi trọng. Về mặt giáo dục, quyền sống của mọi con người, số đông tầng lớp trung lưu và hạ lưu của xã hội bị gạt bỏ những quyền lợi của họ. Giai cấp Bà-la-môn và vua chúa đã độc quyền trong mọi mặt. Toàn bộ cấu trúc xã hội dựa trên nguyên lý bất bình đẳng. Những luật lệ được áp dụng để đem lại quyền lợi và đặc ân cho giai cấp cao. Chống lại những luật lệ này Ðức Phật tuyên bố triết lý tự do, bình đẳng, vì lợi ích cho số đông. Có thể nói Ðức Phật là người đầu tiên đả phá thành lũy đặc quyền, hệ thống giai cấp, chủ nghĩa nghi thức, cuồng tín tôn giáo, mê tín. Ngài dạy về: tự do cá nhân, khoan dung, cảm thông, từ bi, bất hại (ahimsa).
Chính giáo lý nghiệp của Phật giáo đã bác bỏ sự phân chia giai cấp ở Ấn Độ. Mọi người đều bình đẳng trước nghiệp lực. Ngài đánh giá con người theo phẩm chất đạo đức của người ấy không phải theo giai cấp, màu da, địa phương, ngôn ngữ. Ngài khẳng định mọi người đều có khả năng chứng đạt niết-bàn. Cánh cửa Tăng đoàn mở rộng cho mọi tầng lớp trong xã hội, kể cả người thuộc giai cấp thấp. Một số đệ tử của Đức Phật xuất thân từ giai cấp thấp, nhưng chuyên tâm tu tập đạt được kết quả cao. Đức Phật đã giới thiệu truyền thống dân chủ trong việc điều hành Tăng đoàn. “Giá trị” của mỗi cá nhân không phải do “sinh ra” mà giá trị nằm ở phẩm chất của cá nhân đó. Nghiệp đóng một vai trò quan trọng đối với con người và cuộc sống con người, qua đoạn trích sau ta thấy được điểm này. Kinh Tiểu nghiệp phân biệt đã định nghĩa:
… Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp là phân chia các loài hữu tình.10
Đức Phật đã phản đối quan niệm một Thượng đế sáng tạo, thưởng phạt cả thế giới theo ý muốn của mình. Mặc khác học thuyết duyên khởi cùng với thuyết nghiệp của Phật giáo đã giải thích rõ nguồn gốc và sự phát triển của chúng sanh và những sự kiện xung quanh. Giáo lý nghiệp là một năng lực cải cách hệ thống giai cấp Ấn Độ. Giáo lý giải thích rõ được những sự khác nhau trong cuộc sống của mỗi cá nhân trong xã hội như giàu nghèo, hạnh phúc khổ đau. Kinh kẻ bần tiện có nói về sự sang hèn của hữu tình không phải do sinh ra mà chính do hành vi tạo tác trong quá khứ:
Bần tiện không vì sanh, Phạm chí không vì sanh, Do hành, thành bần tiện, Do hành, thành Phạm chí.
Hay trong luận Câu-xá nói lên sự khác biệt của hữu tình là do nghiệp (世別由業生). 11
-
-
- Giáo hóa con người có lối sống hài hòa
Phật dạy nên tránh xa những cực đoan. Ngài nhận thức được điều này qua 6 năm khổ hạnh. Ngài xem thường cuộc sống xa hoa và khổ hạnh. Ngài sống theo lối sống trung đạo. Cực đoan không giúp hành giả đạt được trạng thái tâm linh tối cao. Xa hoa khiến con người đắm say vật chất. Ngay cả trong lãnh vực tôn giáo cũng không nên quá cuồng tín, cực đoan. Điểm giáo lý này được vua A Dục áp dụng. Như trong sắc lệnh số 12 của ông có đoạn, “Không nên chỉ tôn trọng tôn giáo của mình và chỉ trích tôn giáo khác, phải tôn trọng tôn giáo khác cũng như tôn trọng tôn giáo mình…”. Chính vì những cực đoan mà con người không thể chấm dứt mọi xung đột.
-
-
- Giáo dục lòng vị tha
Theo hạnh Bồ-tát, hành giả hành xử không chỉ hướng lợi ích cho riêng mình mà còn giúp ích cho tha nhân. Trong xã hội con người không thể tồn tại độc lập mà giữa con người có những mối quan hệ mật thiết. Việc làm của một người có thể ảnh hưởng đến nhiều người. Giáo lý Phật giáo dạy mọi người hành xử hợp lý để tạo ảnh hưởng tốt cho nhau. Vị tha liên quan đến việc sống và hành động vì lợi ích mọi người. Cuộc đời Đức Phật là tấm gương vị tha. Ngài rời bỏ cung điện xa hoa tìm cầu chân lý. Ngay sau khi chứng đạt giác ngộ Ngài đã chia sẻ những trải nghiệm an lạc tâm linh cho mọi người. Bức thông điệp của ngài là từ bi. Đức Phật có đủ tự lợi, lợi tha. Ngài tùy theo căn cơ của chúng sinh đang chìm đắm trong bùn lầy sinh tử, ngài thuyết ra những bài pháp thích hợp để cứu thoát họ. Chúng sinh trong thế gian sở dĩ trôi nổi trong biển khổ trầm luân, không hẹn ngày ra là do ngu si mê hoặc. Nếu không nhờ lòng từ giáo hóa của Phật thì không thể nào thoát khỏi những cảnh khổ đau. Bằng cách thuyết giảng bất hại, và từ bi, Phật giáo giúp cho mọi người ý thức giá trị cuộc sống và khiến họ xa rời những lối sống phi lý, khổ đau. Ngài đã giáo huấn các đệ tử hãy vì lợi ích số đông mà du hành giáo hóa.
Này các Tỷ-kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Chớ có đi hai người một chỗ. Này các Tỷ- kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Hãy tuyên thuyết Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. 12
-
-
- Thiết lập xã hội đạo đức và thanh bình
Đạo đức là nền tảng của tất cả lời dạy của Phật. Những giáo lý căn bản, như: 5 giới, 10 giới, Bát chánh đạo, Tứ đế, Duyên khởi… luôn luôn nhắc nhở con người về sự nguy hiểm của chấp trước, tham đắm và khuyên họ đi theo chính đạo. Đức Phật xem đạo đức là yếu tố hòa bình, tiến triển và thịnh vượng của cá nhân, xã hội và quốc gia. Xã hội đạo đức phải tuân thủ những tiêu chuẩn đạo đức và dứt trừ các loại phiền não: tham, sân, si… Xã hội sẽ bất an khi con người luôn bị phiền não chi phối, tâm không được thanh tịnh. Tâm chỉ đạo các hành vi. Con người cho dù ở trong một môi trường đầy đủ tiện nghi hiện đại nhưng với tâm đầy tham, sân, si thì cũng khó có được một phút giây bình an.
Thế giới không thanh bình do tâm của con người luôn thù hận, gây ra cảnh bắn giết lẫn nhau. Nỗi thù hận xuất phát từ tâm sân hận. Tâm bình thế giới bình, tâm chúng sanh không bình nên gây ra sự biến loạn của thế giới. Khi nào tâm của mỗi cá nhân được thanh tịnh thì xã hội mới được trật tự, ổn định, công bằng. Cá nhân phải tu tập để loại trừ 3 loại phiền não căn bản, tham, sân, si phải phát triển tâm từ bi và lòng cảm thông độ lượng, đó là tịnh độ. Quan điểm này có thể thấy trong kinh Duy Ma:

![]()
12. HT. Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tương Ưng Bộ, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1993, 235.
Nếu Bồ-tát muốn đạt được tịnh độ phải thanh tịnh tâm mình. Khi tâm tịnh thì cõi nước trở nên thanh tịnh.
若 菩薩 欲 得 淨土 當 淨 其 心。 隨 其 心 淨則 佛 土淨
(Đại14.538.3)
Đức Phật thấu hiểu được tiến trình hoạt động tâm thức. Ngài hiểu được sự nhận thức và cảm xúc của cá nhân. Cho nên Ngài đưa ra những phương cách giáo dục có thể hoàn thiện được tâm thức của cá nhân và xã hội, giúp cho mọi người an lạc, xã hội ổn định, thanh bình trong hiện tại cũng như tương lai. Phật giáo có ảnh hưởng lớn đối với thế giới. Nhân loại học hỏi được nhiều từ sự giáo dục của Phật giáo. Giáo lý Phật giáo đã giúp cho con người có được lối sống có định hướng, an lạc, hạnh phúc.
***
Tài liệu tham khảo
Cubberley, Ellwood P., The History of Education, Blackmask.com, 2003 (Stanford University, 1920).
Dewey, John, Democracy and Education, Blackmask Online, 2003 Dutt, Nalinaksha, Early Monastic Buddhism, Calcutta: Firma KLM
Private Limited, 1980.
Dutt, Sukumar, Buddhist Monks and Monasteries of India: Their His- tory and Their Contribution to Indian Cuture, Delhi: Motilal Ba- narsidass Publishers, 2000.
Ghosh, Suresh Chandra, The History of Education in Ancient India:
c. 3000 BC to AD 1192, New Delhi: Munshinram Manoharlal Publishers, 2001.
Sharma, S. N., Buddhist Social and Moral Education., Delhi: Parimal Publications, 1994.
Cubberley, Ellwood P., The History of Education, Blackmask.com, 2003 (Stanford University, 1920).
Dewey, John, Democracy and Education, Blackmask Online, 2003. Dutt, Nalinaksha, Early Monastic Buddhism, Calcutta: Firma KLM
Private Limited, 1980.
Dutt, Sukumar, Buddhist Monks and Monasteries of India: Their His- tory and Their Contribution to Indian Cuture, Delhi: Motilal Ba- narsidass Publishers, 2000.
Ghosh, Suresh Chandra, The History of Education in Ancient India:
c. 3000 BC to AD 1192, New Delhi: Munshinram Manoharlal Publishers, 2001.
Sharma, S. N., Buddhist Social and Moral Education, Delhi: Parimal Publications, 1994.
HT. Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trường Bộ, Thành phố Hồ Chí
Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991.
HT. Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trung Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1992.
HT. Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tương Ưng Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1993.